Xưa nay Bắc Triều Tiên là một quốc gia bí ẩn, khép kín với thế giới bên ngoài, cái gì thần bí, chưa biết thì càng kích thích trí tưởng tượng và tâm lý hiếu kỳ của thiên hạ, do đó những tin tức, đề tài về Triều Tiên lâu nay luôn sốt dẻo, hấp dẫn đối với người đọc.
Không phải chỉ có nhiều người chưa biết về tình hình hiện tại bên trong quốc gia "thần thần bí bí" này, mà ngay cả lịch sử Triều Tiên, lịch sử chiến tranh Triều Tiên lâu nay cũng vẫn mơ hồ đối với nhiều người, nhất là các bạn đọc không phải người Triều Tiên, người Hàn, trong đó có người Việt Nam chúng ta.
Việt Nam lâu nay luôn nhất quán với quan điểm không đánh giá, can thiệp vào việc nội bộ của nước khác, các môn học về lịch sử thế giới, lịch sử châu Á ở Việt Nam đều chỉ ghi nhận chung chung vấn đề hoặc ghi nhận khách quan một số diễn biến lịch sử quan trọng, chính yếu của các nước, chứ không nhận xét, đánh giá gì (ngoài đề tài Thế chiến 2) về nó, cũng không có những hội thảo chuyên sâu cấp nhà nước về những đề tài lịch sử của nước ngoài. Lịch sử Triều Tiên và cuộc chiến liên Triều cũng không ngoại lệ, điều này càng tạo ra nhiều mơ hồ hơn về cuộc chiến Triều Tiên nói riêng và lịch sử Triều Tiên nói chung.
Trong một số cuộc chiến tranh quy mô lớn có liên quan đến hai phe cộng sản và tư bản trong lịch sử hiện đại ở khu vực châu Á thì cuộc chiến tranh Triều Tiên là một cuộc chiến phức tạp về mặt chính trị. Trong khi chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ ở Việt Nam là chiến tranh chống xâm lược nằm trong một bối cảnh mâu thuẫn quốc tế giữa 2 khối XHCN và TBCN, cũng như chống các công cụ ngụy quyền mà họ dựng lên sau khi VN đã độc lập và thống nhất về mặt pháp lý từ năm 1945. Trong khi nội chiến Trung Quốc rất rõ ràng là nội chiến, hoàn toàn chỉ có 2 quân đội Đảng Cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông đứng đầu và quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu chống nhau, Mỹ chỉ có vai trò viện trợ hạn chế về vũ khí và tiền bạc, thì chiến tranh Triều Tiên lại rất khó để phân định bản chất của nó, chính nghĩa của các bên, và mục tiêu của các bên.
Nếu đề tài Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam, Nội chiến Trung Quốc (Chinese Civil War) đa số các sử gia quốc tế đều khá đồng nhất về quan điểm thì đề tài Chiến tranh Triều Tiên cho tới ngày nay vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa có sự đồng thuận, nhất trí trong giới sử học thế giới.
Do chưa biết rõ, chưa có nhiều thông tin, nên lâu nay nhiều người chưa có cái nhìn thật sự khách quan về bối cảnh, tình cảnh bán đảo Triều Tiên, về CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, vai trò của Trung Quốc và Hoa Kỳ đối với bán đảo này. Phần lớn nhận định của họ dựa trên cảm tính yêu ghét và lợi ích bản thân.
Những người đặt trọng tâm vào lịch sử thời chống Pháp, chống Mỹ, khi CHDCND Triều Tiên đứng về phía ta, thì sẽ thích Triều Tiên, ghét Hàn Quốc (nhất là những nạn nhân hoặc có người thân, bạn bè là nạn nhân của những tội ác, thảm sát do gần 20 vạn quân Hàn Quốc gây ra trong lúc tham chiếm giúp Mỹ xâm lược Việt Nam). Những người đặt trọng tâm vào lịch sử thời sau Giải phóng và trước Đổi mới, thời kỳ chiến tranh chống Trung Quốc và Khmer Đỏ, khi CHDCND Triều Tiên đứng về phía Trung Quốc và Khmer Đỏ, thì sẽ ghét Triều Tiên.
Ngày nay lợi ích kinh tế, giáo dục của Việt Nam gắn nhiều với Hàn Quốc, những bạn có lợi ích gắn liền với Hàn Quốc, hoặc ưa thích, thần tượng những nhân vật công chúng, ca sĩ, diễn viên, idol, âm nhạc, phim ảnh của Hàn Quốc thì cũng sẽ thích Hàn Quốc theo cảm tính tự nhiên. Nói chung, thường ai đó nếu đã ưa Triều Tiên thì sẽ không ưa Hàn Quốc, nếu ai đã ưa Hàn Quốc thì sẽ không ưa Triều Tiên, nếu đã ưa bên này thì sẽ không ưa bên kia. Ít ai ưa thích cả hai phe hoặc ghét bỏ cả hai phía.
Trong bài này tôi xin được viết về đề tài này, trình bày mọi góc cạnh một cách khách quan nhất, ít cảm tính nhất, nhiều chiều nhất, trung lập nhất để bạn đọc dễ tham khảo. Và dù ai đã có định kiến, thành kiến, yêu ghét hai bên như thế nào thì vẫn có thể đọc được dễ chịu.
Chỉ mới vài tháng trước, tình hình bán đảo Triều Tiên và vấn đề phi hạt nhân hóa trong khu vực đang rất căng thẳng giữa Bắc Triều Tiên và Hoa Kỳ - Hàn Quốc - Nhật Bản, không biết bao giờ sẽ có đàm phán trở lại. Bắc Triều Tiên vẫn luôn vỗ ngực tuyên bố sẵn sàng đương đầu, tiến hành "chiến tranh thần thánh" với Mỹ - Hàn - Nhật. Tuy nhiên, sau khi Kim Chính Ân (Kim Jong-un) kế vị cố chủ tịch Kim Chính Nhật (Kim Jong-il) thì Bắc Triều Tiên bất ngờ nói chuyện với phía Mỹ và sau đó nhanh chóng chấp nhận "ngừng chương trình hạt nhân" để đổi lấy viện trợ lương thực từ Mỹ.
Thật ra hành động lần này của Triều Tiên không khác gì với với đường lối lãnh đạo truyền thống, mà chỉ là một sự tiếp nối với những gì đã tồn tại suốt hơn hai thập kỷ qua. Thỏa thuận mà Bình Nhưỡng chấp nhận vừa rồi chẳng khác gì với thỏa thuận từng rơi vào bế tắc sau các cuộc tiếp xúc Mỹ - Triều Tiên hồi tháng 10/2011 ở Geneva. Định hướng cơ bản của Triều Tiên không có sự thay đổi lớn. 240.000 tấn lương thực là khoản viện trợ không nhỏ, nhưng nó chưa đủ lớn để tạo nên một bước ngoặt trong cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên.
Triều Tiên lâu nay bị Mỹ và các đồng minh bao vây cấm vận. Dưới thời tổng thống tài hoa Bill Clinton, Mỹ lúc này có một chính phủ bồ câu ôn hòa và một chính sách cởi mở, thông thoáng. Do muốn tập trung vào phục hồi khủng hoảng kinh tế, vấn đề nội trị, nạn thất nghiệp, phá sản ở Mỹ lúc đó, nên họ muốn làm hòa với Tiều Tiên để làm dịu tình hình. CHDCND Triều Tiên cũng cần điều này để thoát cấm vận nên đã đồng ý với Mỹ về một lộ trình phi hạt nhân hóa, đi kèm với thỏa thuận này là chính sách Ánh Dương của cựu tổng thống Hàn Quốc Kim Đại Trung (Kim Dae-jung, Kim Tê Chung) với hy vọng thống nhất bằng giải pháp hòa bình.
Từ đó quan hệ liên Triều nồng ấm hẳn lên, nhưng sau khi tổng thống George W. Bush và chính phủ diều hâu, hiếu chiến, bảo thủ của ông ta lên lãnh đạo, và tình hình trong nước Mỹ cơ bản đã ổn, kinh tế và các ngành nghề đã phục hồi và ổn định, Mỹ liền hướng ngoại và đã lật đổ mọi nỗ lực hòa bình trong khu vực mà Bill Clinton, Kim Đại Trung và Kim Chính Nhật đã khó khăn xây dựng. Chính phủ Bush đã bội ước khiến Bắc Triều Tiên nổi giận và tái khởi động dự án hạt nhân.
Không lâu sau đó, Bình Nhưỡng tiếp tục đồng ý tạm dừng chương trình hạt nhân, nhưng sau đó lại tiến hành các vụ phóng tên lửa. Năm 2006, Triều Tiên một lần nữa tuyên bố ngưng chương trình hạt nhân, nhưng lại tiết lộ một nhà máy làm giàu uranium vào cuối năm 2010. Phần lớn những lần "xuống nước" của Bình Nhưỡng đều để đổi lại những khoản viện trợ lương thực và nhiên liệu.
Nhiều người Mỹ trên khắp các trang mạng, viết ý kiến dưới các bài báo, đều bức xúc hỏi "tại sao lần nào chúng ta cũng mắc lừa bọn ấy", "đây là lần thứ mấy rồi bọn chúng làm vậy", "việc này cứ diễn đi diễn lại" v.v. Và rất nhiều người đặt dấu hỏi vì sao mà ngay tại Mỹ đang có bao nhiêu người thiếu ăn, thiếu thốn, vô gia cư, vô nghề nghiệp, ăn mày, nạn nhân của khủng hoảng kinh tế thị trường, của thiên tai lũ lụt v.v. đang cần thực phẩm, cần sự giúp đỡ nhân đạo, mà không giúp đồng bào lại đi giúp nước ngoài, giúp ai không giúp lại đi giúp "bọn North Korea", quốc gia mà cựu tổng thống Bush đã từng liệt vào "Trục ma quỷ" và đưa vào danh sách "tài trợ khủng bố".
Thật ra Mỹ không hề ngu khờ gì trong quyết định này, đây là vấn đề chính trị, vì các mục tiêu chính trị và lợi ích chính trị của chính Mỹ. Về trước mắt, Mỹ cần làm dịu bớt tình hình căng thẳng trong khu vực Đông Bắc Á và bán đảo Triều Tiên, muốn tạm làm lành với Bắc Triều Tiên để có thể yên tâm tập trung hướng vào Syria và Iran. Họ không muốn bị vướng víu nhiều vấn đề cùng một lúc, chống nhiều mũi chọn cùng một lúc. Việc tạm hòa với Triều Tiên thông qua thỏa thuận này chính là một nước cờ chính trị để tạm ổn định tình hình khu vực, ổn định bớt một mặt trận, và làm cùn bớt một mũi nhọn chỉa vào mình.
Về tổng thể và lâu dài, Mỹ muốn trang điểm cho bộ mặt "hiệp sĩ", "đạo đức", "quân tử" của mình, củng cố "chính nghĩa" và "lẽ phải" của mình, vì dù sao đi nữa thì hành động viện trợ nhân đạo luôn là hành động đẹp trước mắt công chúng, đồng thời đánh lạc hướng dư luận khỏi một sự thật bao nhiêu năm nay là Mỹ đã bao vây, cấm vận Triều Tiên. Mặt khác, Mỹ muốn thăm dò tình trạng khó khăn và túng thiếu của Triều Tiên. Mỹ cũng muốn làm một phép thử để dò xét thái độ của chính phủ mới Kim Chính Ân sau khi kế tục cha mình, xem chính sách và phong cách ngoại giao, về tổng quát, có thay đổi, khác biệt chút nào không, theo hướng mạnh mẽ hay ôn hòa, muốn chiến hay hòa...
CHDCND Triều Tiên chấp nhận mối "giao dịch" này đầu tiên có lẽ là thật sự họ đang túng thiếu. Dân Triều Tiên do thiên tai bão lụt, do chính sách tự cô lập bế quan tỏa cảng, tự cung tự cấp của chủ thuyết Juche và do sự cấm vận ráo riết và khắc nghiệt của Mỹ, làm cho nhân dân Triều Tiên quả thật thiếu thốn lương thực. Và cũng do muốn tỏ ra có thiện chí, đưa ra bộ mặt tốt trước hết là đối với nhân dân trong nước (có lương thực), sau là dư luận quốc tế (ngừng chương trình hạt nhân), đặc biệt đối với một nhà lãnh đạo mới và còn rất trẻ trung (nếu không nói là lãnh tụ trẻ nhất thế giới hiện tại), chưa có nhiều công lao, chưa có nhiều kinh lịch, trải nghiệm, thì đây là quyết định ngoại giao rất có ý nghĩa chính trị. Đây là mối "giao dịch" hai bên đều có lợi và đầy những tính toán, dụng ý sâu xa, có tác dụng, hiệu quả chính trị sâu sắc.
Lịch sử phong kiến Triều Tiên
Lịch sử Cao Ly (Koryo, Korea) kéo dài từ thời kỳ đồ đá cũ đến ngày nay. Sau sự tan rã của Cổ Triều Tiên, Triều Tiên bước vào thời kỳ phân tranh quyền lực mà đỉnh điểm là thời Tam quốc tranh hùng gồm 3 nước Cao Câu Ly (Goguryeo), Bách Tế (Baekje) và Tân La (Silla) kéo dài từ năm 57 trước công nguyên (TCN) đến năm 668 sau công nguyên (SCN). Đến năm 676, Tân La thống nhất hầu hết bán đảo Triều Tiên. Trong khi đó, bộ hạ của nhà Cao Câu Ly thành lập vương quốc Bột Hải ở phía Bắc bán đảo Triều Tiên vào năm 698. Năm 926, Bột Hải bị người Khiết Đan thôn tính; Triều Tiên lại rơi vào thời kỳ phân tranh Hậu Tam Quốc (892–935) với 3 triều đình Hậu Cao Câu Ly, Tân La, Hậu Bách Tế.
Nhà Cao Ly (918-1392) chấm dứt tình trạng phân chia bán đảo Triều Tiên kéo dài gần 1000 năm sau công cuộc giành vương quyền Hậu Cao Câu Ly và thôn tính Tân La, Hậu Bách Tế. Năm 1392, Cao Ly sụp đổ và được thay thế bởi nhà Triều Tiên (1392–1897) và sau đó là Đế quốc Đại Hàn (1897–1910) trước khi bị người Nhật thôn tính vào năm 1910.
Năm 1231 - 1273 xảy ra chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly (lúc này Mông Cổ chưa thôn tính xong hết Trung Hoa Đại Lục và chưa thành lập nhà Nguyên), cuộc chiến bao gồm 6 chiến dịch lớn của quân Mông Cổ gây thiệt hại nặng nề cho bán đảo Triều Tiên. Sau khi vua Cao Ly giật dây cho phái đầu hàng của các nhóm quan văn Cao Ly hành thích Tể tướng chủ chiến Thôi Nghị và tiêu diệt gia tộc họ Thôi vốn lâu nay áp lực triều đình chống giặc Mông Cổ, Cao Ly đã xin hàng, phải ký hiệp ước đầu hàng, cống nạp vàng bạc châu báu và tài nguyên, trẻ em, nữ nô, và thợ thủ công để làm nô lệ và nô bộc cho đế quốc Mông Cổ, phải cho các con cháu quý tộc, bao gồm các công chúa, hoàng tử sang Mông Cổ làm con tin, và đồng thời trở thành một chư hầu, phiên thuộc của Mông Cổ trong gần 1 thế kỷ sau.
Lịch sử cận đại và hiện đại Triều Tiên
Triều Tiên dưới ách cai trị của đế quốc Nhật từ năm 1910. Người Nhật gọi Triều Tiên là ngoại địa và Nhật Bản là nội địa, có nhiệm vụ "khai phóng" Triều Tiên trong chính sách "Phồn vinh châu Á". Chính sách cai trị của Nhật được chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ năm 1910 đến 1919 cốt "thuần hóa" nhân dân Triều Tiên, bình định bán đảo Triều Tiên. Giai đoạn hai từ năm 1920 đến 1931 là giai đoạn dung hòa, mị dân, ôn tồn phủ dụ, nới rộng sự kiểm soát, phát triển văn hóa, giáo dục. Giai đoạn ba, từ 1931 đến 1945 phát triển kỹ nghệ và Nhật hóa.
Trong thời kỳ bị đế quốc Nhật Bản đô hộ, người Triều Tiên vùng lên chống lại rất nhiều lần và hình thành nhiều thế lực chính trị khác nhau. Tuy nhiên, không có phong trào nào, lực lượng nào gây ấn tượng, thậm chí họ không có lực lượng vũ trang và vì vậy không thể hoạt động dưới sự bố ráp, ruồng bố, đàn áp của quân phiệt Nhật, khiến họ đành phải hoạt động ở Trung Quốc và hải ngoại. Đến năm 1939 tất cả các thế lực chống Nhật đều bị tận diệt hoặc phải lưu vong ngoại quốc, không còn thế lực nào hoạt động trong nước.
Mãi về sau mới có 2 lực lượng quân sự ra đời; một là Quân Tình nguyện Triều Tiên, do hai tướng Kim Tu-bong (Kim Đấu Phụng) và Mu Chong (sau này bị Kim Nhật Thành thanh trừng) thành lập ở "thánh địa cộng sản" Diên An, Trung Quốc vào năm 1939, sau này tướng Kim Nhật Thành vào lãnh đạo. Đội quân này chỉ có vài trăm du kích cộng sản nhưng đến năm 1945 đã phát triển lên 1000 quân.
Hai là Quân Giải phóng Triều Tiên (còn được gọi là Hàn Quốc Quang phục quân), do Kim Gu (Kim Cửu) thành lập ở Trùng Khánh, TQ vào ngày 17 tháng 9 năm 1941, dưới sự thống lĩnh của các tướng Ji Cheong-cheon, Lee Bum-suk (người hùng của trận chiến 6 ngày Qingshanli đánh Nhật), tuyên chiến với phát xít Đức và Nhật. Sau này tướng Kim Won-bong dẫn Nghĩa Liệt Đoàn sát nhập vào Quân Giải phóng Triều Tiên, lực lượng lên được mấy trăm tay súng.
(Quân Giải phóng Triều Tiên (Hàn Quốc Quang phục quân))
Sau khi phe Trục thua, Kim Cửu cố gắng kéo quân về nước tham gia giải phóng và tranh quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào giải giáp quân Nhật, nhưng không kịp. Sau khi Liên Xô và Hoa Kỳ giải phóng bán đảo Triều Tiên, Quân Giải phóng Triều Tiên chia rẽ nội bộ sâu sắc và đã phân rã, các tướng lĩnh, lãnh đạo người thì theo tiến sĩ Lý Thừa Vãn, kẻ thì gia nhập vào Quân Tình nguyện Triều Tiên của Kim Nhật Thành.
Tiến sĩ Lý Thừa Vãn ở Nam phần Triều Tiên ra sức chiêu hiền đãi sĩ, thu hút hiền tài, Các tướng Ji Cheong-cheon, Lee Bum-suk theo Lý Thừa Vãn và được trọng dụng, ưu đãi. Lee Bum-suk sau này là Thủ tướng trong Chính phủ đầu tiên của nước Đại Hàn Dân Quốc. Kim Cửu cũng vào hoạt động chính trị ở Nam Triều Tiên, nhưng không theo Lý Thừa Vãn mà là tranh quyền với ông ta, công khai phê phán, chỉ trích ông ta nhiều lần.
Khi viễn cảnh và triển vọng một Triều Tiên độc lập khỏi sự đô hộ, nô dịch của Nhật Bản đã hình thành, thì Kim Cửu đã dẫn một phái đoàn gồm những nhà hoạt động có tên tuổi lặn lội đến Bình Nhưỡng xin gặp Kim Nhật Thành để bàn việc thống nhất bán đảo Triều Tiên, thuyết phục Kim khoan việc tính chuyện lập quốc ở miền Bắc, không ngờ bị Kim Nhật Thành bác bỏ thẳng thừng và hai bên to tiếng cãi nhau một trận. Kim Cửu ngao ngán trở về miền Nam. Sau khi thất bại trong nhiệm vụ du thuyết trở về, Kim Cửu bị Lý Thừa Vãn lợi dụng thêm một lần nữa trong cuộc bầu cử. Một năm sau, năm 1949, Lý Thừa Vãn cho người ám sát Kim Cửu.
Kim Cửu là một nhà dân tộc chủ nghĩa thật thà, trong sáng, và ngày nay vẫn được Hàn Quốc ca tụng, xây tượng để vinh danh. Bắc Triều Tiên tuy coi ông là một người theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc cải lương, nhưng cũng rất tôn trọng ông.
Tướng Kim Won-bong, phó tư lệnh Quân Giải phóng Triều Tiên, không theo Kim Cửu về Nam, mà ở lại theo Kim Nhật Thành. Tuy nhiên, ông bị Kim Nhật Thành nghi oan và thanh trừng vào năm 1958, sau đó ông tự sát.
Sau Thế chiến 2, Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vào năm 1945, Liên Xô và Hoa Kỳ tiến vào giải phóng bán đảo Triều Tiên, giải giới quân phiệt Nhật, chiếm đóng tạm thời, và bán đảo Triều Tiên bị chia đôi thành 2 quốc gia độc lập với ranh giới ở vĩ tuyến 38.
Nam Triều Tiên do tiến sĩ Lý Thừa Vãn lãnh đạo với sự hậu thuẫn của quân đội Hoa Kỳ, bầu Quốc hội ở Nam Triều Tiên và hoàn thành Hiến pháp ngày 17 tháng 7 năm 1948, ngày 15 tháng 8 năm 1948 tuyên bố lập quốc, thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc thân Mỹ và theo chủ nghĩa tư bản.
Bắc Triều Tiên do Kim Nhật Thành lãnh đạo với sự hỗ trợ của Hồng quân Liên Xô, gần 1 tháng sau khi Đại Hàn Dân Quốc đã tuyên bố độc lập và thành lập quốc gia, thì họ cũng tuyên bố lập quốc vào ngày 9 tháng 9 năm 1948, thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên thân Xô - Trung và theo chủ nghĩa Kim Nhật Thành và thuyết Chủ thể (Juche), một học thuyết do Kim Nhật Thành và các lý luận gia của CHDCND Triều Tiên nghiên cứu và phát triển, mang nhiều yếu tố của tư tưởng truyền thống Triều Tiên và tinh thần tự lực cánh sinh.
Tên gọi "Triều Tiên" là lấy từ thời đại Cổ Triều Tiên tồn tại nhiều ngàn năm trong lịch sử bán đảo này, trong đó có các nước Cơ Tử Triều Tiên, Toán Tử Triều Tiên, Đàn Quân Triều Tiên, Vương Kiếm Triều Tiên, Vệ Mãn Triều Tiên, vẫn còn được ghi chép sơ lược trong cuốn "Tam Quốc Di Sự". Danh từ "Triều Tiên" còn được dùng cho triều đại Triều Tiên, vốn tồn tại hơn 200 năm, là triều đại phong kiến cuối cùng của dân tộc này trước khi bị đế quốc Nhật Bản xâm lược.
Còn Đại Hàn Dân Quốc, viết gọn là Hàn Quốc, là một cải biên từ danh từ của 3 bộ lạc "Tam Hàn" và "Đại Hàn Đế Quốc" của nhà Triều Tiên, và quốc hiệu này chỉ tồn tại vỏn vẹn có 13 năm là triều đình Triều Tiên sụp đổ, thất thủ trước quân xâm lược Nhật.
Những năm cuối cùng của triều đại Triều Tiên dưới quốc hiệu Đại Hàn thì đã rất suy đồi, suy yếu, triều cương hủ bại, vua quan chỉ lo hưởng lạc, bỏ bê việc triều chính, dung túng quan binh nhũng nhiễu bá tánh, nhân dân đói khổ, lầm than, than oán, là một trong những triều vua tệ nhất trong lịch sử dân tộc Cao Ly. Nên khi nước Nhật đem quân tiến vào chiếm lấy Triều Tiên nhanh chóng mà không khó nhọc gì. Vì vậy việc lực lượng Lý Thừa Vãn lập quốc trước mà lại lấy Đại Hàn làm quốc hiệu thì khá là khó hiểu.
Quốc kỳ Đại Hàn Dân Quốc là lá cờ Âm Dương (Yin Yang) với bát quái (8 quẻ) bao quanh. Theo lịch sử Triều Tiên, đây thật ra là lá cờ của Quân Giải phóng Triều Tiên thành lập năm 1941 cải biên từ lá cờ triều đình của vương quốc Tân La, một triều đình hùng mạnh và từng có công thống nhất bán đảo Triều Tiên, nhưng cũng bị nhiều sử gia Triều - Hàn xem là bọn cõng rắn cắn gà, rước voi giày mồ, vương triều này là đồ đệ trung thành của triều Đường ở Trung Quốc, cùng với quân Đường đánh nhau với anh em trong nhà trong các thời Tiền Tam Quốc, Tam Quốc (Triều Tiên), Hậu Tam Quốc, đánh Bột Hải, đánh Cao Câu Ly (tiền thân của đế chế Cao Ly sau này)... Suốt thời kỳ cầm quyền và cả thời Tân La thống nhất sau này, triều Tân La thường là đồng minh trung thành của Trung Hoa, chuyên cùng với quân Tàu đi thảo phạt các thế lực khởi nghĩa, nổi dậy trong nước.
Hàn Quốc chống cộng mà lại dùng một lá quốc kỳ đậm chất Trung Hoa như vậy là vì lúc đó là năm 1948, Quốc dân đảng Trung Hoa còn mạnh và vẫn có ưu thế trên chiến trường chống cộng sản. Có lẽ vì vậy tập đoàn Lý Thừa Vãn muốn tỏ ý thân thiện và thần phục Trung Hoa. Thời đó nhiều người trong phe tư bản vẫn hy vọng rằng Tưởng trước sau gì cũng sẽ thắng Mao, thống nhất đại lục Trung Hoa.
(Biểu tượng của tư tưởng Chủ thể)
Mặc dù tuyên bố theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Marx - Engels - Lenin nhưng nhiều học giả phương Tây nhận xét rằng CHDCND Triều Tiên theo chủ nghĩa Stalin và nặng tính chủ nghĩa Mao Trạch Đông hơn là chủ nghĩa Marx thật sự. Quan điểm chính thống của Việt Nam trong những năm tháng chống Trung Quốc (1979-1992) cũng không xem Bắc Triều Tiên là một quốc gia theo chủ nghĩa Marx-Lenin chân chính. Năm 2003, Triều Tiên đã chỉnh sửa và bổ sung Hiến pháp, và dùng thuật ngữ Chủ thể thay vào tất cả các thuật ngữ cộng sản trong Hiến pháp, hoàn toàn theo đuổi một con đường riêng với chủ nghĩa Juche của Kim Nhật Thành và chính sách Tiên quân, quân đội hàng đầu (선군 정책) của Kim Chính Nhật.
Hai bên đã đối đầu trực tiếp với nhau trong cuộc chiến Triều Tiên năm 1950, sau đó quân đội hai bên tan rã, đại quân Trung Quốc và Liên Hiệp Quốc do Mỹ cầm đầu nhảy vào. Sau 3 năm chiến tranh giằng co, đẫm máu, bán đảo Triều Tiên vẫn duy trì tình trạng chiến tranh và chia thành hai quốc gia cho đến ngày nay.
Về bản chất của chiến tranh liên Triều và tình hình ngày nay thì cũng chẳng khác nhiều với thời kỳ Tiền Tam Quốc, Tam Quốc (Triều Tiên), Hậu Tam Quốc, và Nam Bắc Triều bên bán đảo Triều Tiên. Với các nước, các thế lực khác nhau thống trị bán đảo như Bắc Phù Dư, Đông Phù Dư, Cao Câu Ly, Bách Tế, Tân La, Bột Hải, Hậu Cao Câu Ly, Hậu Bách Tế v.v. Bên Cao Ly chia rẽ, phân hóa, nội chiến, nội loạn, đánh giết lẫn nhau cũng gần như phong kiến Trung Hoa. Thời cận đại do những diễn biến lịch sử, các đặc điểm lịch sử khách quan, nên bán đảo này biến thành 2 nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía Bắc và Đại Hàn Dân Quốc ở phía Nam, âu cũng là nối tiếp truyền thống xa xưa và lịch sử tái hiện.
(Liên Xô giải phóng Bắc Triều Tiên)
(Mỹ giải phóng Nam Triều Tiên)
Ngày 8 tháng 9 năm 1945, Liên Xô và Hoa Kỳ tiến quân vào bán đảo Triều Tiên giải giáp quân đội Nhật. Liên Xô đã rút quân ra khỏi Bắc Triều Tiên vào năm 1948, trong khi Mỹ vẫn kéo dài việc đóng quân tại Nam Triều Tiên trong những năm sau đó.
Tại Bắc Triều Tiên, viên tướng trẻ Kim Nhật Thành, một lãnh tụ quân đội chống Nhật của Triều Tiên, cùng với Hội Phục hưng Tổ quốc và Quân Tình nguyện Triều Tiên kết hợp với các lực lượng ái quốc, kháng Nhật, thân cộng, thiên tả khác ở miền Bắc Triều Tiên và Trung Quốc, lập ra Ủy ban Nhân dân Lâm thời Bắc Triều Tiên, sau đó thành lập Đảng Lao động Bắc Triều Tiên, sau sát nhập Đảng Nhân dân Mới vào rồi đổi tên thành Đảng Lao động Triều Tiên. Tiến hành thanh trừng Đảng Cộng sản Triều Tiên.
Đảng Cộng sản Triều Tiên(조선공산당, Triều Cộng) là một đảng chính trị theo chủ nghĩa cộng sản được Quốc tế Cộng sản thành lập tại Triều Tiên vào năm 1925 dưới thời bị Nhật đô hộ. Thập niên 1920, Đảng Cộng sản Triều Tiên mở rộng hoạt động ra tận các khu vực có người Triều Tiên sinh sống gồm Nhật Bản và Mãn Châu. Do bị Nhật đàn áp, Trung ương đảng này bị xóa sổ rồi lập lại nhiều lần, vì thế mà có đến 4 Đảng Cộng sản Triều Tiên cùng tên. Sau khi Đảng Cộng sản Triều Tiên thứ tư bị Quốc tế Cộng sản xóa sổ vào năm 1929 vì cho là chủ nghĩa dân tộc cải lương, chủ nghĩa sô-vanh, nhiều chi bộ của nó vẫn tồn tại và phong trào tái lập Đảng Cộng sản Triều Tiên vẫn được tiếp tục.
Sau Chiến tranh Thái Bình Dương, Đảng Cộng sản Triều Tiên được một số chí sĩ tái lập vào tháng 9 năm 1945. Nó chính là một trong những tiền thân của Đảng Lao động Triều Tiên. Tuy nhiên, người sáng lập Đảng Lao động Triều Tiên, Kim Nhật Thành không có quan hệ gì với Đảng Cộng sản Triều Tiên, đồng thời giữa hai đảng này lại có những đối lập giữa các cá nhân, vì thế Kim và Đảng Lao động Triều Tiên trước khi lập quốc đã phải thanh toán đối thủ chính trị của phe mình, dùng lực lượng quân sự có sẵn để tiến hành đánh dẹp, Đảng Cộng sản Triều Tiên không có quân đội trong tay, lại có thực lực yếu ớt, nên đã bị dẹp dễ dàng và nhanh gọn, không để lại bao nhiêu hậu quả chính trị. Từ đó quan điểm chính thống của CHDCND Triều Tiên luôn có những đánh giá mang tính phủ nhận đối với Đảng Cộng sản Triều Tiên, sợ uy tín và những công lao của Đảng Cộng sản Triều Tiên gây ảnh hưởng tiêu cực, làm lu mờ đi vai trò và tầm ảnh hưởng của Đảng Lao động Triều Tiên.
("Tiểu anh hùng" Kim Nhật Thành lúc thành lập Liên minh Đả đảo Chủ nghĩa Đế quốc năm 1926)
Gia tộc họ Kim là một gia đình yêu nước, cả nhà đều chống Nhật. Nhà ngoại của Kim Nhật Thành đã hoạt động tuyên truyền chống Nhật từ những năm đầu kháng chiến, gia đình phải vào đạo Cơ Đốc Tin Lành để tránh tai mắt của quân xâm lược, ông ngoại của Kim Nhật Thành cũng phải hóa thân làm một mục sư. Đến năm 1920, trước tình hình bố ráp ngày càng căng thẳng của toàn quyền Nhật, gia đình này vượt sông Áp Lục và tỵ nạn chính trị ở Mãn Châu, Trung Quốc.
Năm 14 tuổi, Kim Nhật Thành đã truyền bá bài hát “Ái Quốc Ca” (sau này là quốc ca Triều Tiên) để tuyên truyền lòng yêu nước trong cộng đồng lưu vong Triều Tiên, sau đó ông cùng một số kiều dân tỵ nạn Triều Tiên đồng trang lứa ở Mãn Châu thành lập Liên minh Đả đảo Chủ nghĩa Đế quốc vào năm 1926 để phản đối chính sách bành trướng của các siêu cường trên thế giới thời ấy. Tuy nhiên, đó là một tổ chức non yếu, mang tính nghiệp dư và thiếu tính chuyên nghiệp, do những thành viên trong nhóm này còn quá trẻ, nhiệt tình có thừa nhưng trình độ chính trị chưa đủ.
Năm 17 tuổi, Kim Nhật Thành với những tiến bộ nhất định về nhận thức và kiến thức chính trị, ông đã gia nhập Hội Thanh niên Cộng sản Nam Mãn Châu và bị phát xít Nhật tống giam vào năm 1929. Sau khi cùng với các đồng chí vượt ngục thành công, ông tham gia các lực lượng du kích chống Nhật ở vùng Hoa Bắc Trung Quốc. Vào năm 1935, ông gia nhập Quân đội Hỗn hợp kháng Nhật vùng Đông Bắc, một nhóm du kích chống Nhật do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, có cùng một mục tiêu chiến đấu chống quân phiệt Nhật nói riêng và chủ nghĩa phát xít nói chung. Vừa tham gia vào lực lượng này thì Kim Nhật Thành đã chứng tỏ được bản lĩnh chính trị xuất sắc so với lứa tuổi, trẻ tuổi như thế nhưng ông đã được chỉ định làm chính trị viên cho chi đội thứ ba của sư đoàn 2, với khoảng 160 chiến sĩ, ông là chính trị viên trẻ tuổi nhất trong quân đội lúc đó.
Liên Xô đã tôn trọng hiệp ước Moscow ký kết với 4 nước đồng minh là Mỹ, Trung Quốc, Anh, và Pháp vào tháng 12, 1945. Họ rút hết quân về nước vào năm 1948 sau khi các nhóm Triều Tiên kháng Nhật tự lập nên đảng cầm quyền của họ ở Bắc Triều Tiên, và dân chúng phía Bắc Triều Tiên đã tôn vị tướng trẻ của họ lên làm lãnh tụ tối cao. Đó là do Kim Nhật Thành đã đấu tranh chống Nhật từ nhỏ, ông là thần tượng của nhiều người dân Bắc Triều Tiên, và là một “huyền thoại quân sự” trong tâm trí người dân biên giới phía Bắc, nơi mà Kim Nhật Thành đã nhiều lần chỉ huy một đạo quân chỉ có vài trăm người mà đánh thắng nhiều lực lượng thiện chiến của quân Quan Đông Nhật, và là vị tướng trẻ duy nhất lúc đó đánh chiếm được những đồn lính của Nhật quanh vùng biên giới.
(Kim Nhật Thành đọc diễn văn trong cuộc tuần hành quy mô ở Bình Nhưỡng tháng 10/1945, chào mừng ông trở về sau cuộc chiến chống phát xít Nhật)
(Kim Nhật Thành năm 1946)
Trong khi ở phía Bắc bán đảo, Liên Xô đã tôn trọng hiệp ước ký với Mỹ, rút hết Hồng quân về nước, thì ngược lại ở phía Nam bán đảo, Mỹ không tuân thủ những điều đã ký kết tại Hội nghị Moscow, âm mưu chia rẽ bán đảo Triều Tiên. Người Mỹ vẫn duy trì thực binh ở Nam Triều Tiên và ủng hộ tiến sĩ Lý Thừa Vãn, một nhà chính trị lão luyện, cao tuổi, đã hoạt động chống Nhật lâu năm theo đường lối ôn hòa, cải lương, với các biện pháp chính trị, tuyên truyền, biểu tình, đấu tranh dân quyền, khai thông dân trí như Gandhi ở Ấn Độ và Phan Châu Trinh ở Việt Nam, và lực lượng của ông.
Với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, lực lượng Lý Thừa Vãn tiến hành bầu cử Quốc hội ở Nam Triều Tiên và hoàn thành Hiến pháp vào ngày 17 tháng 7 năm 1948. Sau đó bầu ra chính phủ theo mô hình chính trị tư bản phương Tây, tuyên bố lập quốc vào ngày 15 tháng 8 năm 1948, thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc.
Trong cuộc bầu cử này "cáo già" Lý Thừa Vãn đã dùng thủ đoạn chính trị đưa Kim Cửu vào danh sách ứng cử viên mà Kim Cửu không hề biết trước, nhưng lại sắp xếp hậu trường giữ cho Kim Cửu không thể thắng. Sau đó Kim Cửu khẳng định mình không hề tham gia vận động tranh cử và không biết gì về việc này, ông ta khẳng định đây là tiểu xảo của Lý Thừa Vãn nhằm mục đích phá hoại hình ảnh của ông, lúc đó vốn đang là đối thủ chính trị bất đắc dĩ của Lý và thường chỉ trích tính cách độc tài, độc đoán của ông ta. Kim Cửu cũng khẳng định ông chưa bao giờ có ý định tham gia tranh cử, vì ông ta kiên quyết chống lại sự phân chia lãnh thổ và chia rẽ dân tộc. Ngoài mưu đồ trên, Lý Thừa Vãn còn muốn lợi dụng tên tuổi, biểu tượng, "thương hiệu" của Kim Cửu để tăng cường trang trí cho cuộc bầu cử, tăng cường trang điểm cho mặt mũi của chính ông ta, rằng ta đây thắng được Kim Cửu.
(Phe Lý Thừa Vãn tuyên bố thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc trước đông đảo quần chúng Nam Triều Tiên)
("Cáo già" Lý Thừa Vãn)
Ngay sau đó, Kim Nhật Thành và Đảng Lao động liền tức tốc tiến hành bầu cử Quốc hội ở Bắc Triều Tiên. Ngày 9, tháng 9, năm 1948, Quốc hội Bắc Triều Tiên họp, thông qua Hiến pháp, bầu ra chính phủ và tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
(Chủ tịch Kim Nhật Thành nói chuyện với đông đảo người dân Bình Nhưỡng, tháng
Không phải chỉ có nhiều người chưa biết về tình hình hiện tại bên trong quốc gia "thần thần bí bí" này, mà ngay cả lịch sử Triều Tiên, lịch sử chiến tranh Triều Tiên lâu nay cũng vẫn mơ hồ đối với nhiều người, nhất là các bạn đọc không phải người Triều Tiên, người Hàn, trong đó có người Việt Nam chúng ta.
Việt Nam lâu nay luôn nhất quán với quan điểm không đánh giá, can thiệp vào việc nội bộ của nước khác, các môn học về lịch sử thế giới, lịch sử châu Á ở Việt Nam đều chỉ ghi nhận chung chung vấn đề hoặc ghi nhận khách quan một số diễn biến lịch sử quan trọng, chính yếu của các nước, chứ không nhận xét, đánh giá gì (ngoài đề tài Thế chiến 2) về nó, cũng không có những hội thảo chuyên sâu cấp nhà nước về những đề tài lịch sử của nước ngoài. Lịch sử Triều Tiên và cuộc chiến liên Triều cũng không ngoại lệ, điều này càng tạo ra nhiều mơ hồ hơn về cuộc chiến Triều Tiên nói riêng và lịch sử Triều Tiên nói chung.
Trong một số cuộc chiến tranh quy mô lớn có liên quan đến hai phe cộng sản và tư bản trong lịch sử hiện đại ở khu vực châu Á thì cuộc chiến tranh Triều Tiên là một cuộc chiến phức tạp về mặt chính trị. Trong khi chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ ở Việt Nam là chiến tranh chống xâm lược nằm trong một bối cảnh mâu thuẫn quốc tế giữa 2 khối XHCN và TBCN, cũng như chống các công cụ ngụy quyền mà họ dựng lên sau khi VN đã độc lập và thống nhất về mặt pháp lý từ năm 1945. Trong khi nội chiến Trung Quốc rất rõ ràng là nội chiến, hoàn toàn chỉ có 2 quân đội Đảng Cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông đứng đầu và quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu chống nhau, Mỹ chỉ có vai trò viện trợ hạn chế về vũ khí và tiền bạc, thì chiến tranh Triều Tiên lại rất khó để phân định bản chất của nó, chính nghĩa của các bên, và mục tiêu của các bên.
Nếu đề tài Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam, Nội chiến Trung Quốc (Chinese Civil War) đa số các sử gia quốc tế đều khá đồng nhất về quan điểm thì đề tài Chiến tranh Triều Tiên cho tới ngày nay vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa có sự đồng thuận, nhất trí trong giới sử học thế giới.
Do chưa biết rõ, chưa có nhiều thông tin, nên lâu nay nhiều người chưa có cái nhìn thật sự khách quan về bối cảnh, tình cảnh bán đảo Triều Tiên, về CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc, vai trò của Trung Quốc và Hoa Kỳ đối với bán đảo này. Phần lớn nhận định của họ dựa trên cảm tính yêu ghét và lợi ích bản thân.
Những người đặt trọng tâm vào lịch sử thời chống Pháp, chống Mỹ, khi CHDCND Triều Tiên đứng về phía ta, thì sẽ thích Triều Tiên, ghét Hàn Quốc (nhất là những nạn nhân hoặc có người thân, bạn bè là nạn nhân của những tội ác, thảm sát do gần 20 vạn quân Hàn Quốc gây ra trong lúc tham chiếm giúp Mỹ xâm lược Việt Nam). Những người đặt trọng tâm vào lịch sử thời sau Giải phóng và trước Đổi mới, thời kỳ chiến tranh chống Trung Quốc và Khmer Đỏ, khi CHDCND Triều Tiên đứng về phía Trung Quốc và Khmer Đỏ, thì sẽ ghét Triều Tiên.
Ngày nay lợi ích kinh tế, giáo dục của Việt Nam gắn nhiều với Hàn Quốc, những bạn có lợi ích gắn liền với Hàn Quốc, hoặc ưa thích, thần tượng những nhân vật công chúng, ca sĩ, diễn viên, idol, âm nhạc, phim ảnh của Hàn Quốc thì cũng sẽ thích Hàn Quốc theo cảm tính tự nhiên. Nói chung, thường ai đó nếu đã ưa Triều Tiên thì sẽ không ưa Hàn Quốc, nếu ai đã ưa Hàn Quốc thì sẽ không ưa Triều Tiên, nếu đã ưa bên này thì sẽ không ưa bên kia. Ít ai ưa thích cả hai phe hoặc ghét bỏ cả hai phía.
Trong bài này tôi xin được viết về đề tài này, trình bày mọi góc cạnh một cách khách quan nhất, ít cảm tính nhất, nhiều chiều nhất, trung lập nhất để bạn đọc dễ tham khảo. Và dù ai đã có định kiến, thành kiến, yêu ghét hai bên như thế nào thì vẫn có thể đọc được dễ chịu.
Chỉ mới vài tháng trước, tình hình bán đảo Triều Tiên và vấn đề phi hạt nhân hóa trong khu vực đang rất căng thẳng giữa Bắc Triều Tiên và Hoa Kỳ - Hàn Quốc - Nhật Bản, không biết bao giờ sẽ có đàm phán trở lại. Bắc Triều Tiên vẫn luôn vỗ ngực tuyên bố sẵn sàng đương đầu, tiến hành "chiến tranh thần thánh" với Mỹ - Hàn - Nhật. Tuy nhiên, sau khi Kim Chính Ân (Kim Jong-un) kế vị cố chủ tịch Kim Chính Nhật (Kim Jong-il) thì Bắc Triều Tiên bất ngờ nói chuyện với phía Mỹ và sau đó nhanh chóng chấp nhận "ngừng chương trình hạt nhân" để đổi lấy viện trợ lương thực từ Mỹ.
Thật ra hành động lần này của Triều Tiên không khác gì với với đường lối lãnh đạo truyền thống, mà chỉ là một sự tiếp nối với những gì đã tồn tại suốt hơn hai thập kỷ qua. Thỏa thuận mà Bình Nhưỡng chấp nhận vừa rồi chẳng khác gì với thỏa thuận từng rơi vào bế tắc sau các cuộc tiếp xúc Mỹ - Triều Tiên hồi tháng 10/2011 ở Geneva. Định hướng cơ bản của Triều Tiên không có sự thay đổi lớn. 240.000 tấn lương thực là khoản viện trợ không nhỏ, nhưng nó chưa đủ lớn để tạo nên một bước ngoặt trong cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên.
Triều Tiên lâu nay bị Mỹ và các đồng minh bao vây cấm vận. Dưới thời tổng thống tài hoa Bill Clinton, Mỹ lúc này có một chính phủ bồ câu ôn hòa và một chính sách cởi mở, thông thoáng. Do muốn tập trung vào phục hồi khủng hoảng kinh tế, vấn đề nội trị, nạn thất nghiệp, phá sản ở Mỹ lúc đó, nên họ muốn làm hòa với Tiều Tiên để làm dịu tình hình. CHDCND Triều Tiên cũng cần điều này để thoát cấm vận nên đã đồng ý với Mỹ về một lộ trình phi hạt nhân hóa, đi kèm với thỏa thuận này là chính sách Ánh Dương của cựu tổng thống Hàn Quốc Kim Đại Trung (Kim Dae-jung, Kim Tê Chung) với hy vọng thống nhất bằng giải pháp hòa bình.
Từ đó quan hệ liên Triều nồng ấm hẳn lên, nhưng sau khi tổng thống George W. Bush và chính phủ diều hâu, hiếu chiến, bảo thủ của ông ta lên lãnh đạo, và tình hình trong nước Mỹ cơ bản đã ổn, kinh tế và các ngành nghề đã phục hồi và ổn định, Mỹ liền hướng ngoại và đã lật đổ mọi nỗ lực hòa bình trong khu vực mà Bill Clinton, Kim Đại Trung và Kim Chính Nhật đã khó khăn xây dựng. Chính phủ Bush đã bội ước khiến Bắc Triều Tiên nổi giận và tái khởi động dự án hạt nhân.
Không lâu sau đó, Bình Nhưỡng tiếp tục đồng ý tạm dừng chương trình hạt nhân, nhưng sau đó lại tiến hành các vụ phóng tên lửa. Năm 2006, Triều Tiên một lần nữa tuyên bố ngưng chương trình hạt nhân, nhưng lại tiết lộ một nhà máy làm giàu uranium vào cuối năm 2010. Phần lớn những lần "xuống nước" của Bình Nhưỡng đều để đổi lại những khoản viện trợ lương thực và nhiên liệu.
Nhiều người Mỹ trên khắp các trang mạng, viết ý kiến dưới các bài báo, đều bức xúc hỏi "tại sao lần nào chúng ta cũng mắc lừa bọn ấy", "đây là lần thứ mấy rồi bọn chúng làm vậy", "việc này cứ diễn đi diễn lại" v.v. Và rất nhiều người đặt dấu hỏi vì sao mà ngay tại Mỹ đang có bao nhiêu người thiếu ăn, thiếu thốn, vô gia cư, vô nghề nghiệp, ăn mày, nạn nhân của khủng hoảng kinh tế thị trường, của thiên tai lũ lụt v.v. đang cần thực phẩm, cần sự giúp đỡ nhân đạo, mà không giúp đồng bào lại đi giúp nước ngoài, giúp ai không giúp lại đi giúp "bọn North Korea", quốc gia mà cựu tổng thống Bush đã từng liệt vào "Trục ma quỷ" và đưa vào danh sách "tài trợ khủng bố".
Thật ra Mỹ không hề ngu khờ gì trong quyết định này, đây là vấn đề chính trị, vì các mục tiêu chính trị và lợi ích chính trị của chính Mỹ. Về trước mắt, Mỹ cần làm dịu bớt tình hình căng thẳng trong khu vực Đông Bắc Á và bán đảo Triều Tiên, muốn tạm làm lành với Bắc Triều Tiên để có thể yên tâm tập trung hướng vào Syria và Iran. Họ không muốn bị vướng víu nhiều vấn đề cùng một lúc, chống nhiều mũi chọn cùng một lúc. Việc tạm hòa với Triều Tiên thông qua thỏa thuận này chính là một nước cờ chính trị để tạm ổn định tình hình khu vực, ổn định bớt một mặt trận, và làm cùn bớt một mũi nhọn chỉa vào mình.
Về tổng thể và lâu dài, Mỹ muốn trang điểm cho bộ mặt "hiệp sĩ", "đạo đức", "quân tử" của mình, củng cố "chính nghĩa" và "lẽ phải" của mình, vì dù sao đi nữa thì hành động viện trợ nhân đạo luôn là hành động đẹp trước mắt công chúng, đồng thời đánh lạc hướng dư luận khỏi một sự thật bao nhiêu năm nay là Mỹ đã bao vây, cấm vận Triều Tiên. Mặt khác, Mỹ muốn thăm dò tình trạng khó khăn và túng thiếu của Triều Tiên. Mỹ cũng muốn làm một phép thử để dò xét thái độ của chính phủ mới Kim Chính Ân sau khi kế tục cha mình, xem chính sách và phong cách ngoại giao, về tổng quát, có thay đổi, khác biệt chút nào không, theo hướng mạnh mẽ hay ôn hòa, muốn chiến hay hòa...
CHDCND Triều Tiên chấp nhận mối "giao dịch" này đầu tiên có lẽ là thật sự họ đang túng thiếu. Dân Triều Tiên do thiên tai bão lụt, do chính sách tự cô lập bế quan tỏa cảng, tự cung tự cấp của chủ thuyết Juche và do sự cấm vận ráo riết và khắc nghiệt của Mỹ, làm cho nhân dân Triều Tiên quả thật thiếu thốn lương thực. Và cũng do muốn tỏ ra có thiện chí, đưa ra bộ mặt tốt trước hết là đối với nhân dân trong nước (có lương thực), sau là dư luận quốc tế (ngừng chương trình hạt nhân), đặc biệt đối với một nhà lãnh đạo mới và còn rất trẻ trung (nếu không nói là lãnh tụ trẻ nhất thế giới hiện tại), chưa có nhiều công lao, chưa có nhiều kinh lịch, trải nghiệm, thì đây là quyết định ngoại giao rất có ý nghĩa chính trị. Đây là mối "giao dịch" hai bên đều có lợi và đầy những tính toán, dụng ý sâu xa, có tác dụng, hiệu quả chính trị sâu sắc.
Lịch sử phong kiến Triều Tiên
Lịch sử Cao Ly (Koryo, Korea) kéo dài từ thời kỳ đồ đá cũ đến ngày nay. Sau sự tan rã của Cổ Triều Tiên, Triều Tiên bước vào thời kỳ phân tranh quyền lực mà đỉnh điểm là thời Tam quốc tranh hùng gồm 3 nước Cao Câu Ly (Goguryeo), Bách Tế (Baekje) và Tân La (Silla) kéo dài từ năm 57 trước công nguyên (TCN) đến năm 668 sau công nguyên (SCN). Đến năm 676, Tân La thống nhất hầu hết bán đảo Triều Tiên. Trong khi đó, bộ hạ của nhà Cao Câu Ly thành lập vương quốc Bột Hải ở phía Bắc bán đảo Triều Tiên vào năm 698. Năm 926, Bột Hải bị người Khiết Đan thôn tính; Triều Tiên lại rơi vào thời kỳ phân tranh Hậu Tam Quốc (892–935) với 3 triều đình Hậu Cao Câu Ly, Tân La, Hậu Bách Tế.
Nhà Cao Ly (918-1392) chấm dứt tình trạng phân chia bán đảo Triều Tiên kéo dài gần 1000 năm sau công cuộc giành vương quyền Hậu Cao Câu Ly và thôn tính Tân La, Hậu Bách Tế. Năm 1392, Cao Ly sụp đổ và được thay thế bởi nhà Triều Tiên (1392–1897) và sau đó là Đế quốc Đại Hàn (1897–1910) trước khi bị người Nhật thôn tính vào năm 1910.
Năm 1231 - 1273 xảy ra chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly (lúc này Mông Cổ chưa thôn tính xong hết Trung Hoa Đại Lục và chưa thành lập nhà Nguyên), cuộc chiến bao gồm 6 chiến dịch lớn của quân Mông Cổ gây thiệt hại nặng nề cho bán đảo Triều Tiên. Sau khi vua Cao Ly giật dây cho phái đầu hàng của các nhóm quan văn Cao Ly hành thích Tể tướng chủ chiến Thôi Nghị và tiêu diệt gia tộc họ Thôi vốn lâu nay áp lực triều đình chống giặc Mông Cổ, Cao Ly đã xin hàng, phải ký hiệp ước đầu hàng, cống nạp vàng bạc châu báu và tài nguyên, trẻ em, nữ nô, và thợ thủ công để làm nô lệ và nô bộc cho đế quốc Mông Cổ, phải cho các con cháu quý tộc, bao gồm các công chúa, hoàng tử sang Mông Cổ làm con tin, và đồng thời trở thành một chư hầu, phiên thuộc của Mông Cổ trong gần 1 thế kỷ sau.
Lịch sử cận đại và hiện đại Triều Tiên
Triều Tiên dưới ách cai trị của đế quốc Nhật từ năm 1910. Người Nhật gọi Triều Tiên là ngoại địa và Nhật Bản là nội địa, có nhiệm vụ "khai phóng" Triều Tiên trong chính sách "Phồn vinh châu Á". Chính sách cai trị của Nhật được chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ năm 1910 đến 1919 cốt "thuần hóa" nhân dân Triều Tiên, bình định bán đảo Triều Tiên. Giai đoạn hai từ năm 1920 đến 1931 là giai đoạn dung hòa, mị dân, ôn tồn phủ dụ, nới rộng sự kiểm soát, phát triển văn hóa, giáo dục. Giai đoạn ba, từ 1931 đến 1945 phát triển kỹ nghệ và Nhật hóa.
Trong thời kỳ bị đế quốc Nhật Bản đô hộ, người Triều Tiên vùng lên chống lại rất nhiều lần và hình thành nhiều thế lực chính trị khác nhau. Tuy nhiên, không có phong trào nào, lực lượng nào gây ấn tượng, thậm chí họ không có lực lượng vũ trang và vì vậy không thể hoạt động dưới sự bố ráp, ruồng bố, đàn áp của quân phiệt Nhật, khiến họ đành phải hoạt động ở Trung Quốc và hải ngoại. Đến năm 1939 tất cả các thế lực chống Nhật đều bị tận diệt hoặc phải lưu vong ngoại quốc, không còn thế lực nào hoạt động trong nước.
Mãi về sau mới có 2 lực lượng quân sự ra đời; một là Quân Tình nguyện Triều Tiên, do hai tướng Kim Tu-bong (Kim Đấu Phụng) và Mu Chong (sau này bị Kim Nhật Thành thanh trừng) thành lập ở "thánh địa cộng sản" Diên An, Trung Quốc vào năm 1939, sau này tướng Kim Nhật Thành vào lãnh đạo. Đội quân này chỉ có vài trăm du kích cộng sản nhưng đến năm 1945 đã phát triển lên 1000 quân.
Hai là Quân Giải phóng Triều Tiên (còn được gọi là Hàn Quốc Quang phục quân), do Kim Gu (Kim Cửu) thành lập ở Trùng Khánh, TQ vào ngày 17 tháng 9 năm 1941, dưới sự thống lĩnh của các tướng Ji Cheong-cheon, Lee Bum-suk (người hùng của trận chiến 6 ngày Qingshanli đánh Nhật), tuyên chiến với phát xít Đức và Nhật. Sau này tướng Kim Won-bong dẫn Nghĩa Liệt Đoàn sát nhập vào Quân Giải phóng Triều Tiên, lực lượng lên được mấy trăm tay súng.
(Quân Giải phóng Triều Tiên (Hàn Quốc Quang phục quân))
Sau khi phe Trục thua, Kim Cửu cố gắng kéo quân về nước tham gia giải phóng và tranh quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào giải giáp quân Nhật, nhưng không kịp. Sau khi Liên Xô và Hoa Kỳ giải phóng bán đảo Triều Tiên, Quân Giải phóng Triều Tiên chia rẽ nội bộ sâu sắc và đã phân rã, các tướng lĩnh, lãnh đạo người thì theo tiến sĩ Lý Thừa Vãn, kẻ thì gia nhập vào Quân Tình nguyện Triều Tiên của Kim Nhật Thành.
Tiến sĩ Lý Thừa Vãn ở Nam phần Triều Tiên ra sức chiêu hiền đãi sĩ, thu hút hiền tài, Các tướng Ji Cheong-cheon, Lee Bum-suk theo Lý Thừa Vãn và được trọng dụng, ưu đãi. Lee Bum-suk sau này là Thủ tướng trong Chính phủ đầu tiên của nước Đại Hàn Dân Quốc. Kim Cửu cũng vào hoạt động chính trị ở Nam Triều Tiên, nhưng không theo Lý Thừa Vãn mà là tranh quyền với ông ta, công khai phê phán, chỉ trích ông ta nhiều lần.
Khi viễn cảnh và triển vọng một Triều Tiên độc lập khỏi sự đô hộ, nô dịch của Nhật Bản đã hình thành, thì Kim Cửu đã dẫn một phái đoàn gồm những nhà hoạt động có tên tuổi lặn lội đến Bình Nhưỡng xin gặp Kim Nhật Thành để bàn việc thống nhất bán đảo Triều Tiên, thuyết phục Kim khoan việc tính chuyện lập quốc ở miền Bắc, không ngờ bị Kim Nhật Thành bác bỏ thẳng thừng và hai bên to tiếng cãi nhau một trận. Kim Cửu ngao ngán trở về miền Nam. Sau khi thất bại trong nhiệm vụ du thuyết trở về, Kim Cửu bị Lý Thừa Vãn lợi dụng thêm một lần nữa trong cuộc bầu cử. Một năm sau, năm 1949, Lý Thừa Vãn cho người ám sát Kim Cửu.
Kim Cửu là một nhà dân tộc chủ nghĩa thật thà, trong sáng, và ngày nay vẫn được Hàn Quốc ca tụng, xây tượng để vinh danh. Bắc Triều Tiên tuy coi ông là một người theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc cải lương, nhưng cũng rất tôn trọng ông.
Tướng Kim Won-bong, phó tư lệnh Quân Giải phóng Triều Tiên, không theo Kim Cửu về Nam, mà ở lại theo Kim Nhật Thành. Tuy nhiên, ông bị Kim Nhật Thành nghi oan và thanh trừng vào năm 1958, sau đó ông tự sát.
Sau Thế chiến 2, Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vào năm 1945, Liên Xô và Hoa Kỳ tiến vào giải phóng bán đảo Triều Tiên, giải giới quân phiệt Nhật, chiếm đóng tạm thời, và bán đảo Triều Tiên bị chia đôi thành 2 quốc gia độc lập với ranh giới ở vĩ tuyến 38.
Nam Triều Tiên do tiến sĩ Lý Thừa Vãn lãnh đạo với sự hậu thuẫn của quân đội Hoa Kỳ, bầu Quốc hội ở Nam Triều Tiên và hoàn thành Hiến pháp ngày 17 tháng 7 năm 1948, ngày 15 tháng 8 năm 1948 tuyên bố lập quốc, thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc thân Mỹ và theo chủ nghĩa tư bản.
Bắc Triều Tiên do Kim Nhật Thành lãnh đạo với sự hỗ trợ của Hồng quân Liên Xô, gần 1 tháng sau khi Đại Hàn Dân Quốc đã tuyên bố độc lập và thành lập quốc gia, thì họ cũng tuyên bố lập quốc vào ngày 9 tháng 9 năm 1948, thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên thân Xô - Trung và theo chủ nghĩa Kim Nhật Thành và thuyết Chủ thể (Juche), một học thuyết do Kim Nhật Thành và các lý luận gia của CHDCND Triều Tiên nghiên cứu và phát triển, mang nhiều yếu tố của tư tưởng truyền thống Triều Tiên và tinh thần tự lực cánh sinh.
Tên gọi "Triều Tiên" là lấy từ thời đại Cổ Triều Tiên tồn tại nhiều ngàn năm trong lịch sử bán đảo này, trong đó có các nước Cơ Tử Triều Tiên, Toán Tử Triều Tiên, Đàn Quân Triều Tiên, Vương Kiếm Triều Tiên, Vệ Mãn Triều Tiên, vẫn còn được ghi chép sơ lược trong cuốn "Tam Quốc Di Sự". Danh từ "Triều Tiên" còn được dùng cho triều đại Triều Tiên, vốn tồn tại hơn 200 năm, là triều đại phong kiến cuối cùng của dân tộc này trước khi bị đế quốc Nhật Bản xâm lược.
Còn Đại Hàn Dân Quốc, viết gọn là Hàn Quốc, là một cải biên từ danh từ của 3 bộ lạc "Tam Hàn" và "Đại Hàn Đế Quốc" của nhà Triều Tiên, và quốc hiệu này chỉ tồn tại vỏn vẹn có 13 năm là triều đình Triều Tiên sụp đổ, thất thủ trước quân xâm lược Nhật.
Những năm cuối cùng của triều đại Triều Tiên dưới quốc hiệu Đại Hàn thì đã rất suy đồi, suy yếu, triều cương hủ bại, vua quan chỉ lo hưởng lạc, bỏ bê việc triều chính, dung túng quan binh nhũng nhiễu bá tánh, nhân dân đói khổ, lầm than, than oán, là một trong những triều vua tệ nhất trong lịch sử dân tộc Cao Ly. Nên khi nước Nhật đem quân tiến vào chiếm lấy Triều Tiên nhanh chóng mà không khó nhọc gì. Vì vậy việc lực lượng Lý Thừa Vãn lập quốc trước mà lại lấy Đại Hàn làm quốc hiệu thì khá là khó hiểu.
Quốc kỳ Đại Hàn Dân Quốc là lá cờ Âm Dương (Yin Yang) với bát quái (8 quẻ) bao quanh. Theo lịch sử Triều Tiên, đây thật ra là lá cờ của Quân Giải phóng Triều Tiên thành lập năm 1941 cải biên từ lá cờ triều đình của vương quốc Tân La, một triều đình hùng mạnh và từng có công thống nhất bán đảo Triều Tiên, nhưng cũng bị nhiều sử gia Triều - Hàn xem là bọn cõng rắn cắn gà, rước voi giày mồ, vương triều này là đồ đệ trung thành của triều Đường ở Trung Quốc, cùng với quân Đường đánh nhau với anh em trong nhà trong các thời Tiền Tam Quốc, Tam Quốc (Triều Tiên), Hậu Tam Quốc, đánh Bột Hải, đánh Cao Câu Ly (tiền thân của đế chế Cao Ly sau này)... Suốt thời kỳ cầm quyền và cả thời Tân La thống nhất sau này, triều Tân La thường là đồng minh trung thành của Trung Hoa, chuyên cùng với quân Tàu đi thảo phạt các thế lực khởi nghĩa, nổi dậy trong nước.
Hàn Quốc chống cộng mà lại dùng một lá quốc kỳ đậm chất Trung Hoa như vậy là vì lúc đó là năm 1948, Quốc dân đảng Trung Hoa còn mạnh và vẫn có ưu thế trên chiến trường chống cộng sản. Có lẽ vì vậy tập đoàn Lý Thừa Vãn muốn tỏ ý thân thiện và thần phục Trung Hoa. Thời đó nhiều người trong phe tư bản vẫn hy vọng rằng Tưởng trước sau gì cũng sẽ thắng Mao, thống nhất đại lục Trung Hoa.
(Biểu tượng của tư tưởng Chủ thể)
Mặc dù tuyên bố theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Marx - Engels - Lenin nhưng nhiều học giả phương Tây nhận xét rằng CHDCND Triều Tiên theo chủ nghĩa Stalin và nặng tính chủ nghĩa Mao Trạch Đông hơn là chủ nghĩa Marx thật sự. Quan điểm chính thống của Việt Nam trong những năm tháng chống Trung Quốc (1979-1992) cũng không xem Bắc Triều Tiên là một quốc gia theo chủ nghĩa Marx-Lenin chân chính. Năm 2003, Triều Tiên đã chỉnh sửa và bổ sung Hiến pháp, và dùng thuật ngữ Chủ thể thay vào tất cả các thuật ngữ cộng sản trong Hiến pháp, hoàn toàn theo đuổi một con đường riêng với chủ nghĩa Juche của Kim Nhật Thành và chính sách Tiên quân, quân đội hàng đầu (선군 정책) của Kim Chính Nhật.
Hai bên đã đối đầu trực tiếp với nhau trong cuộc chiến Triều Tiên năm 1950, sau đó quân đội hai bên tan rã, đại quân Trung Quốc và Liên Hiệp Quốc do Mỹ cầm đầu nhảy vào. Sau 3 năm chiến tranh giằng co, đẫm máu, bán đảo Triều Tiên vẫn duy trì tình trạng chiến tranh và chia thành hai quốc gia cho đến ngày nay.
Về bản chất của chiến tranh liên Triều và tình hình ngày nay thì cũng chẳng khác nhiều với thời kỳ Tiền Tam Quốc, Tam Quốc (Triều Tiên), Hậu Tam Quốc, và Nam Bắc Triều bên bán đảo Triều Tiên. Với các nước, các thế lực khác nhau thống trị bán đảo như Bắc Phù Dư, Đông Phù Dư, Cao Câu Ly, Bách Tế, Tân La, Bột Hải, Hậu Cao Câu Ly, Hậu Bách Tế v.v. Bên Cao Ly chia rẽ, phân hóa, nội chiến, nội loạn, đánh giết lẫn nhau cũng gần như phong kiến Trung Hoa. Thời cận đại do những diễn biến lịch sử, các đặc điểm lịch sử khách quan, nên bán đảo này biến thành 2 nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía Bắc và Đại Hàn Dân Quốc ở phía Nam, âu cũng là nối tiếp truyền thống xa xưa và lịch sử tái hiện.
(Liên Xô giải phóng Bắc Triều Tiên)
(Mỹ giải phóng Nam Triều Tiên)
Ngày 8 tháng 9 năm 1945, Liên Xô và Hoa Kỳ tiến quân vào bán đảo Triều Tiên giải giáp quân đội Nhật. Liên Xô đã rút quân ra khỏi Bắc Triều Tiên vào năm 1948, trong khi Mỹ vẫn kéo dài việc đóng quân tại Nam Triều Tiên trong những năm sau đó.
Tại Bắc Triều Tiên, viên tướng trẻ Kim Nhật Thành, một lãnh tụ quân đội chống Nhật của Triều Tiên, cùng với Hội Phục hưng Tổ quốc và Quân Tình nguyện Triều Tiên kết hợp với các lực lượng ái quốc, kháng Nhật, thân cộng, thiên tả khác ở miền Bắc Triều Tiên và Trung Quốc, lập ra Ủy ban Nhân dân Lâm thời Bắc Triều Tiên, sau đó thành lập Đảng Lao động Bắc Triều Tiên, sau sát nhập Đảng Nhân dân Mới vào rồi đổi tên thành Đảng Lao động Triều Tiên. Tiến hành thanh trừng Đảng Cộng sản Triều Tiên.
Đảng Cộng sản Triều Tiên(조선공산당, Triều Cộng) là một đảng chính trị theo chủ nghĩa cộng sản được Quốc tế Cộng sản thành lập tại Triều Tiên vào năm 1925 dưới thời bị Nhật đô hộ. Thập niên 1920, Đảng Cộng sản Triều Tiên mở rộng hoạt động ra tận các khu vực có người Triều Tiên sinh sống gồm Nhật Bản và Mãn Châu. Do bị Nhật đàn áp, Trung ương đảng này bị xóa sổ rồi lập lại nhiều lần, vì thế mà có đến 4 Đảng Cộng sản Triều Tiên cùng tên. Sau khi Đảng Cộng sản Triều Tiên thứ tư bị Quốc tế Cộng sản xóa sổ vào năm 1929 vì cho là chủ nghĩa dân tộc cải lương, chủ nghĩa sô-vanh, nhiều chi bộ của nó vẫn tồn tại và phong trào tái lập Đảng Cộng sản Triều Tiên vẫn được tiếp tục.
Sau Chiến tranh Thái Bình Dương, Đảng Cộng sản Triều Tiên được một số chí sĩ tái lập vào tháng 9 năm 1945. Nó chính là một trong những tiền thân của Đảng Lao động Triều Tiên. Tuy nhiên, người sáng lập Đảng Lao động Triều Tiên, Kim Nhật Thành không có quan hệ gì với Đảng Cộng sản Triều Tiên, đồng thời giữa hai đảng này lại có những đối lập giữa các cá nhân, vì thế Kim và Đảng Lao động Triều Tiên trước khi lập quốc đã phải thanh toán đối thủ chính trị của phe mình, dùng lực lượng quân sự có sẵn để tiến hành đánh dẹp, Đảng Cộng sản Triều Tiên không có quân đội trong tay, lại có thực lực yếu ớt, nên đã bị dẹp dễ dàng và nhanh gọn, không để lại bao nhiêu hậu quả chính trị. Từ đó quan điểm chính thống của CHDCND Triều Tiên luôn có những đánh giá mang tính phủ nhận đối với Đảng Cộng sản Triều Tiên, sợ uy tín và những công lao của Đảng Cộng sản Triều Tiên gây ảnh hưởng tiêu cực, làm lu mờ đi vai trò và tầm ảnh hưởng của Đảng Lao động Triều Tiên.
("Tiểu anh hùng" Kim Nhật Thành lúc thành lập Liên minh Đả đảo Chủ nghĩa Đế quốc năm 1926)
Gia tộc họ Kim là một gia đình yêu nước, cả nhà đều chống Nhật. Nhà ngoại của Kim Nhật Thành đã hoạt động tuyên truyền chống Nhật từ những năm đầu kháng chiến, gia đình phải vào đạo Cơ Đốc Tin Lành để tránh tai mắt của quân xâm lược, ông ngoại của Kim Nhật Thành cũng phải hóa thân làm một mục sư. Đến năm 1920, trước tình hình bố ráp ngày càng căng thẳng của toàn quyền Nhật, gia đình này vượt sông Áp Lục và tỵ nạn chính trị ở Mãn Châu, Trung Quốc.
Năm 14 tuổi, Kim Nhật Thành đã truyền bá bài hát “Ái Quốc Ca” (sau này là quốc ca Triều Tiên) để tuyên truyền lòng yêu nước trong cộng đồng lưu vong Triều Tiên, sau đó ông cùng một số kiều dân tỵ nạn Triều Tiên đồng trang lứa ở Mãn Châu thành lập Liên minh Đả đảo Chủ nghĩa Đế quốc vào năm 1926 để phản đối chính sách bành trướng của các siêu cường trên thế giới thời ấy. Tuy nhiên, đó là một tổ chức non yếu, mang tính nghiệp dư và thiếu tính chuyên nghiệp, do những thành viên trong nhóm này còn quá trẻ, nhiệt tình có thừa nhưng trình độ chính trị chưa đủ.
Năm 17 tuổi, Kim Nhật Thành với những tiến bộ nhất định về nhận thức và kiến thức chính trị, ông đã gia nhập Hội Thanh niên Cộng sản Nam Mãn Châu và bị phát xít Nhật tống giam vào năm 1929. Sau khi cùng với các đồng chí vượt ngục thành công, ông tham gia các lực lượng du kích chống Nhật ở vùng Hoa Bắc Trung Quốc. Vào năm 1935, ông gia nhập Quân đội Hỗn hợp kháng Nhật vùng Đông Bắc, một nhóm du kích chống Nhật do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, có cùng một mục tiêu chiến đấu chống quân phiệt Nhật nói riêng và chủ nghĩa phát xít nói chung. Vừa tham gia vào lực lượng này thì Kim Nhật Thành đã chứng tỏ được bản lĩnh chính trị xuất sắc so với lứa tuổi, trẻ tuổi như thế nhưng ông đã được chỉ định làm chính trị viên cho chi đội thứ ba của sư đoàn 2, với khoảng 160 chiến sĩ, ông là chính trị viên trẻ tuổi nhất trong quân đội lúc đó.
Liên Xô đã tôn trọng hiệp ước Moscow ký kết với 4 nước đồng minh là Mỹ, Trung Quốc, Anh, và Pháp vào tháng 12, 1945. Họ rút hết quân về nước vào năm 1948 sau khi các nhóm Triều Tiên kháng Nhật tự lập nên đảng cầm quyền của họ ở Bắc Triều Tiên, và dân chúng phía Bắc Triều Tiên đã tôn vị tướng trẻ của họ lên làm lãnh tụ tối cao. Đó là do Kim Nhật Thành đã đấu tranh chống Nhật từ nhỏ, ông là thần tượng của nhiều người dân Bắc Triều Tiên, và là một “huyền thoại quân sự” trong tâm trí người dân biên giới phía Bắc, nơi mà Kim Nhật Thành đã nhiều lần chỉ huy một đạo quân chỉ có vài trăm người mà đánh thắng nhiều lực lượng thiện chiến của quân Quan Đông Nhật, và là vị tướng trẻ duy nhất lúc đó đánh chiếm được những đồn lính của Nhật quanh vùng biên giới.
(Kim Nhật Thành đọc diễn văn trong cuộc tuần hành quy mô ở Bình Nhưỡng tháng 10/1945, chào mừng ông trở về sau cuộc chiến chống phát xít Nhật)
(Kim Nhật Thành năm 1946)
Trong khi ở phía Bắc bán đảo, Liên Xô đã tôn trọng hiệp ước ký với Mỹ, rút hết Hồng quân về nước, thì ngược lại ở phía Nam bán đảo, Mỹ không tuân thủ những điều đã ký kết tại Hội nghị Moscow, âm mưu chia rẽ bán đảo Triều Tiên. Người Mỹ vẫn duy trì thực binh ở Nam Triều Tiên và ủng hộ tiến sĩ Lý Thừa Vãn, một nhà chính trị lão luyện, cao tuổi, đã hoạt động chống Nhật lâu năm theo đường lối ôn hòa, cải lương, với các biện pháp chính trị, tuyên truyền, biểu tình, đấu tranh dân quyền, khai thông dân trí như Gandhi ở Ấn Độ và Phan Châu Trinh ở Việt Nam, và lực lượng của ông.
Với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, lực lượng Lý Thừa Vãn tiến hành bầu cử Quốc hội ở Nam Triều Tiên và hoàn thành Hiến pháp vào ngày 17 tháng 7 năm 1948. Sau đó bầu ra chính phủ theo mô hình chính trị tư bản phương Tây, tuyên bố lập quốc vào ngày 15 tháng 8 năm 1948, thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc.
Trong cuộc bầu cử này "cáo già" Lý Thừa Vãn đã dùng thủ đoạn chính trị đưa Kim Cửu vào danh sách ứng cử viên mà Kim Cửu không hề biết trước, nhưng lại sắp xếp hậu trường giữ cho Kim Cửu không thể thắng. Sau đó Kim Cửu khẳng định mình không hề tham gia vận động tranh cử và không biết gì về việc này, ông ta khẳng định đây là tiểu xảo của Lý Thừa Vãn nhằm mục đích phá hoại hình ảnh của ông, lúc đó vốn đang là đối thủ chính trị bất đắc dĩ của Lý và thường chỉ trích tính cách độc tài, độc đoán của ông ta. Kim Cửu cũng khẳng định ông chưa bao giờ có ý định tham gia tranh cử, vì ông ta kiên quyết chống lại sự phân chia lãnh thổ và chia rẽ dân tộc. Ngoài mưu đồ trên, Lý Thừa Vãn còn muốn lợi dụng tên tuổi, biểu tượng, "thương hiệu" của Kim Cửu để tăng cường trang trí cho cuộc bầu cử, tăng cường trang điểm cho mặt mũi của chính ông ta, rằng ta đây thắng được Kim Cửu.
(Phe Lý Thừa Vãn tuyên bố thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc trước đông đảo quần chúng Nam Triều Tiên)
("Cáo già" Lý Thừa Vãn)
Ngay sau đó, Kim Nhật Thành và Đảng Lao động liền tức tốc tiến hành bầu cử Quốc hội ở Bắc Triều Tiên. Ngày 9, tháng 9, năm 1948, Quốc hội Bắc Triều Tiên họp, thông qua Hiến pháp, bầu ra chính phủ và tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
(Chủ tịch Kim Nhật Thành nói chuyện với đông đảo người dân Bình Nhưỡng, tháng
Chiến tranh Triều Tiên
Trong thời gian đầu năm 1950, quân đội Triều Tiên và quân đội Hàn Quốc tuần tra quanh khu vực vĩ tuyến 38 đã liên tục nảy sinh những xung đột quân sự, lúc thì quân Triều Tiên vượt ranh giới xâm phạm trước, khi thì quân Hàn Quốc nổ súng trước, vượt làn ranh vào trong lãnh thổ của Triều Tiên và bắn phá vào người Triều Tiên, gây ra nhiều cuộc chạm súng nảy lửa quanh vĩ tuyến 38.
Năm 1950, Kim Nhật Thành bị Trung Quốc từ chối viện trợ và giúp đỡ Triều Tiên tiến hành những biện pháp quân sự để thống nhất Tổ quốc. Trung Quốc không muốn các quốc gia láng giềng của mình, trong đó có Triều Tiên, đủ mạnh mà chỉ muốn giữ cho họ đủ sống trong thoi thóp và vật vờ, phải dựa dẫm vào Trung Quốc, đồng thời muốn sử dụng họ làm một trái độn, một vành đai an ninh, phòng tuyến an toàn, làm một lá chắn để che chở cho Trung Quốc khỏi chủ nghĩa bành trướng quốc tế của Mỹ và phương Tây, bảo vệ an ninh quốc phòng cho Trung Quốc, giữ cho biên giới Trung Quốc được ổn định và giữ một khoảng cách an toàn đối với các thế lực tư bản Mỹ - Tây.
Do không được Trung Quốc tán thành và ủng hộ, Kim Nhật Thành phải hướng về Liên Xô cầu viện. Báo Hồng Kông “Bưu điện Hoa Nam buổi sáng” ngày 25/7/2010 dẫn các hồ sơ lịch sử mới được bạch hóa ở Trung Quốc cho thấy ban đầu, chủ tịch Mao Trạch Đông đã phản đối quyết liệt kế hoạch tấn công Hàn Quốc của Bình Nhưỡng cho tới 6 tuần trước khi nổ ra cuộc Nam tiến, và Mao Trạch Đông chỉ thay đổi chính sách sau ý kiến của Stalin. Sau khi Stalin yêu cầu hỗ trợ, Mao Trạch Đông đã thay đổi quyết định và trở thành người ủng hộ cuộc chiến này.
Theo cuốn sách “Mao Trạch Đông, Stalin và Chiến tranh Triều Tiên” của tác giả Thẩm Chí Hoa dựa trên các tài liệu chính thức, Trung Quốc cũng không được chia sẻ thông tin về kế hoạch tấn công Hàn Quốc của CHDCND Triều Tiên. Ngày 19/1/1950, Kim Nhật Thành nói với đại sứ Liên Xô tại Bình Nhưỡng rằng ông ta có kế hoạch giải phóng Tổ quốc. Được tin đó, Stalin gửi một bức điện với nội dung ủng hộ kế hoạch, nhưng không nói gì với Mao Trạch Đông, lúc này đang thăm Điện Cẩm Linh. Stalin cũng đồng ý viện trợ trong năm 1950 vũ khí và trang thiết bị đã cam kết cho năm 1951, để Kim Nhật Thành có thể tăng thêm 3 sư đoàn, nâng quân đội Bắc Triều Tiên lên 10 sư đoàn. Kim Nhật Thành bảo đảm với Stalin rằng ông ta có thể bình định xong Hàn Quốc trước khi Liên Hiệp Quốc, người Mỹ, và thế giới phương Tây có thời gian cũng như ý định can thiệp.
Mục đích của Stalin là muốn dùng các cảng không bao giờ bị đóng băng là Inchon và Pusan cho hải quân Liên Xô, thay thế cho việc mất cảng Đại Liên (Trung Quốc) mà quân đội Liên Xô đã kiểm soát trong tháng 8/1945. Hồi tháng 3/1949, Moscow và Bình Nhưỡng đã đồng ý xây dựng một tuyến đường sắt nối liền hai nước và vận chuyển hàng hóa qua hai cảng này. Phải đến cuối tháng 4/1950, Kim Nhật Thành mới cử một đặc phái viên hàng đầu đến Bắc Kinh để thông báo cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc về kế hoạch tấn công Hàn Quốc. Mao phản đối mạnh mẽ cuộc chiến, nói rằng ông không thể giúp gì được, phải lo duy trì ổn định tình hình trong nước của Trung Quốc trước tiên, các đồng chí không nên đánh Hàn Quốc, mà chỉ nên "trường kỳ kháng chiến", "trường kỳ mai phục", "việc thống nhất là việc lâu dài, việc tương lai sau này", "cứ để con cháu chúng ta thống nhất, đó là việc mai sau, là việc của các thế hệ sau". Tuy nhiên, Mao cũng chấp thuận cho hàng ngàn người Triều Tiên phục vụ trong hàng ngũ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trở về phục vụ trong quân đội của Kim Nhật Thành.
Theo đề nghị của Stalin, đích thân Kim Nhật Thành đến Bắc Kinh ngày 13/5/1950 để cố thuyết phục Mao Trạch Đông. Cuộc mật đàm gay gắt kéo dài đến tận đêm mà hai bên vẫn không đạt được thỏa thuận nào. Ngày sau đó, Stalin đã gửi cho Mao Trạch Đông một bức điện nói rằng vì những thay đổi trong trật tự quốc tế, giới lãnh đạo Liên Xô đã thông qua kế hoạch của Bắc Triều Tiên: “Vấn đề này phải được các đồng chí Triều Tiên và Trung Quốc giải quyết. Các đồng chí Triều Tiên sẽ đưa cho ông một thông báo chi tiết về các cuộc trao đổi của họ với chúng tôi”.
Kim Nhật Thành phát động cuộc tấn công vào ngày 25/6/1950 và đã thành công lớn. Nhưng sang tháng 7, Hoa Kỳ dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc nhảy vào cuộc chiến và đẩy lui các lực lượng Bắc Triều Tiên. Kim Nhật Thành khiếp sợ khi chứng kiến sức mạnh tàn phá hủy diệt ghê gớm của không quân Mỹ mà Bắc Triều Tiên không có cách nào ngăn chặn được. Nhà lãnh đạo này gửi một bức điện tới Stalin, xin được hỗ trợ quân sự mà nếu không từ Liên Xô được thì cũng từ các quốc gia đồng minh khác của Liên Xô.
Không muốn gửi quân và đối mặt với nguy cơ gây chiến cùng Mỹ, Stalin gửi một bức điện cho Mao Trạch Đông: “Theo tình hình hiện nay, nếu Trung Quốc có thể hỗ trợ quân sự cho Bắc Triều Tiên thì 5-6 sư đoàn sẽ là ổn thỏa để tiến tới vĩ tuyến 38. Vai trò của họ sẽ là quân tình nguyện và dĩ nhiên, họ nằm dưới sự chỉ huy của Trung Quốc”. Ngày 1/10/1950, Mao Trạch Đông tổ chức một cuộc họp khẩn Ban Bí thư Trung ương Đảng, bao gồm Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai. “Các ý kiến chia rẽ, nhưng với sự ủng hộ của Chu Ân Lai, quyết định cử quân của Mao Trạch Đông đã thắng”. Được chọn làm chỉ huy quân Chí nguyện Trung Quốc tham gia cuộc chiến “Kháng Mỹ viện Triều”, Bành Đức Hoài tham dự một cuộc họp khác tại Trung Nam Hải vào ngày 4/10/1950. Viên tướng này kể lại: “Bầu không khí rất không bình thường. Sự khác biệt trong các ý kiến là rất lớn. Tôi không thể đưa ra một ý kiến nào”. Ngày 19/10/1950, quân Chí nguyện vượt sông Áp Lục và ngày 25/10 cùng năm, họ đụng độ với các lực lượng LHQ do Mỹ đứng đầu.
Nhà báo Kim Chung, biên tập viên của tờ “Khai phóng” (một tạp chí Hồng Kông chuyên về chính trị Trung Quốc) cũng cho biết: “Mao Trạch Đông ủng hộ cuộc chiến. Ông ta nói rằng chỉ 1,5 người ủng hộ, bao gồm ông ta và Chu Ân Lai ủng hộ một nửa. Tất cả các nhà lãnh đạo khách đều phản đối. Họ cho rằng Trung Quốc vừa kết thúc một cuộc nội chiến dài và đang chịu cảnh bị tàn phá. Giờ là lúc cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông quyết định tham chiến để chiều lòng Stalin, đại ca của phong trào Cộng sản toàn cầu và để bảo đảm sự hỗ trợ của Liên Xô cho Trung Quốc”.
Quân đội Trung Quốc tham gia chiến tranh Triều Tiên được gọi là “quân Chí nguyện” để tránh một cuộc chiến chính thức với Mỹ. Họ đã có những thành công đáng kể trước đối thủ được trang bị tốt nhất và có công nghệ cao nhất thế giới. Đến Giáng sinh năm 1950, quân Trung Quốc đã có thể chiếm lại phần lớn vùng lãnh thổ mà quân đội Bắc Triều Tiên bị đẩy lùi trước đó. Quân đội Trung Quốc đánh chiếm Bình Nhưỡng từ tay Mỹ vào ngày 4/1/1951 nhưng bị đánh bật một lần nữa trong tháng 3. Đến tháng 6, hai bên rơi vào thế giằng co dọc vĩ tuyến 38. Phải mất 2 năm để đạt được thỏa thuận ngừng bắn.
Để chống lại sức mạnh áp đảo của không quân Mỹ, Stalin buộc phải gửi hàng trăm máy bay chiến đấu MiG. Không quân Liên Xô đào tạo các phi công Trung Quốc hoặc dùng phi công của mình mặc quân phục Trung Quốc và nói tiếng Trung để vẫn giả vờ rằng Liên Xô không can thiệp và tránh xung đột trực tiếp với Mỹ.
Nhà sử học Trần Lâm (Trung Quốc) cho rằng động cơ của Mao Trạch Đông khi tham chiến là để thu hút sự chú ý và công nhận Trung Quốc như một cường quốc, đồng thời đoàn kết người dân trong một cuộc chiến yêu nước. Nhà sử học này cũng bình luận: “Kim Nhật Thành đã rất ngạo mạn, tự tin vào sự siêu việt của các trang thiết bị do Liên Xô chế tạo và cho rằng có thể thắng nhanh chóng trước khi bên ngoài can thiệp. Ông ta đã mắc một sai lầm lớn, cũng như tổng tư lệnh Mỹ MacArthur khi cho rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ nhập cuộc. Cả hai đều quá kiêu căng”.
Nhà bình luận Kim Chung thì cho rằng sự can thiệp của Mỹ đã cứu không chỉ Hàn Quốc mà cả Đài Loan: Nếu không có cuộc chiến, Mao Trạch Đông đã dồn sức giải phóng Đài Loan, thống nhất 1 nước Trung Quốc, dùng các làn sóng người làm chiến thuật. Hàng nghìn người sẽ thiệt mạng, nhưng ông ta sẽ thành công. Chiến tranh Triều Tiên đã ngăn cản được điều đó.
Sau khi được Liên Xô và Trung Quốc đồng thuận hậu thuẫn, Kim Nhật Thành và quân đội Triều Tiên tiến hành cuộc "Chiến tranh Giải phóng Tổ quốc", nhằm mục đích thống nhất bán đảo Triều Tiên, hợp nhất hai quốc gia.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới quyết định tiến hành giải phóng Nam Triều Tiên là do nhiều chiến dịch khủng bố "Sát Cộng", "Diệt Cộng", "Thánh chiến phản Cộng" vô cùng tàn ác mà chính phủ Lý Thừa Vãn đã tiến hành ở miền Nam Triều Tiên trong suốt giai đoạn 1947 – 1950, mà đỉnh cao là cuộc chôn sống tập thể gần 400 người, trong đó có nhiều phụ nữ, cụ già, trẻ em, thậm chí cả những người đàn bà đang mang thai. Những cuộc thảm sát ở miền Nam Triều Tiên lâu nay bị bưng bít rất kín và chỉ được đưa ra ánh sáng từ năm 2001 đến nay, một số phóng viên có lương tâm trong đài CNN đã đi tiên phong trong việc này.
(Tranh vẽ cuộc đại thảm sát Triều Tiên (1951) của họa sĩ nổi tiếng Picasso. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và đã họa lại cuộc thảm sát ghê tởm đó.)
Khả năng chính trị hạn chế của Triều Tiên, cộng với ngoại giao kém, tuyên truyền kém, uy tín, tầm vóc của chủ tịch Kim Nhật Thành ở miền Nam lại không được như ở miền Bắc, không huy động nổi một cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam, và sự thiếu quyết tâm và thờ ơ với chính trị của người dân Nam Triều Tiên, khiến cho những phong trào đấu tranh, chống đối ở phía Nam Triều Tiên bị đàn áp và dẹp bỏ dễ dàng. Lực lượng của Bắc Triều Tiên cũng không có cách nào mon men, len lỏi, trà trộn vào được.
Trước sự thất thế trong đấu tranh chính trị và võ lực ở Nam Triều Tiên, Kim Nhật Thành đã quyết định tấn công quy mô, tổng lực, toàn diện, dùng trận địa chiến rộng lớn, triệt để, nhằm thống nhất bán đảo Triều Tiên trước khi quân đội Hàn Quốc trở nên đủ mạnh và chế độ Lý Thừa Vãn trở nên vững nền. Triều Tiên muốn tấn công và chiến thắng thật nhanh trước khi các thế lực bên ngoài đổ quân vào bán đảo.
Cuộc tấn công của quân đội Triều Tiên xảy ra vào sáng sớm ngày chủ nhật 25 tháng 6 năm 1950, họ đã vượt vĩ tuyến 38 và được hậu thuẫn bởi một trận địa pháo bắn phá dữ dội vào phía trước. Được trang bị tốt với gần 15 vạn quân và 240 xe tăng bao gồm 150 xe tăng T-34 do Liên Xô chế tạo, quân đội Triều Tiên bắt đầu cuộc chiến với khoảng 180 máy bay, gồm có 40 máy bay tiêm kích YAK và 70 máy bay ném bom. Riêng hải quân của họ thì trang bị rất kém so với hải quân Mỹ gần đó. Điểm yếu trầm trọng nhất của Triều Tiên là thiếu một hệ thống tiếp vận đáng tin cậy để di chuyển đồ tiếp liệu về miền Nam khi quân đội của họ càng tiến sâu vào lãnh thổ địch. Lực lượng tự vệ của Hàn Quốc yếu hơn rất nhiều, cả về tinh thần chiến đấu lẫn khả năng tác chiến nếu đem so với quân thiện chiến Triều Tiên, do đa số lính Hàn Quốc đều là tân binh mới nhập ngũ, quân đội vừa mới được chính quyền mới xây dựng không bao lâu. Trong khi quân đội Triều Tiên là một quân đội nhà nghề đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trực diện với quân Quan Đông của Nhật, với những chiến binh từng phục vụ trong hàng ngũ Tân Tứ quân, Bát Lộ quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, tham chiến chống lại phát xít Nhật, quân Tưởng và quân phiệt, với những sĩ quan cao cấp chuyên nghiệp từng phục vụ trong Hồng quân Công - Nông của Trung Quốc và Hồng quân Liên Xô.
Quân đội Hàn Quốc có khoảng 5 vạn nhưng lúc đó chỉ gồm các vũ khí hạng nhẹ mà Mỹ đã bỏ không dùng từ sau Thế chiến 2. Quân Hàn Quốc không có xe tăng và rất thiếu xe thiết giáp và pháo binh, họ cũng không có máy bay tiêm kích và vũ khí chống tăng.
Cuộc tấn công được Kim Nhật Thành và đồng sự hoạch định tốt với khoảng 15 vạn quân tinh nhuệ và đã đạt được những thành công chớp nhoáng và bất ngờ. Triều Tiên tiến quân theo chiến lược tốc chiến tốc thắng, đánh mau đánh mạnh, với khí thế "sấm sét", đã tấn công bất thần vào một số điểm trọng yếu như Kaesong, Chuncheon, Uijeongbu và Ongjin.
Trong mấy ngày đầu giao chiến, lực lượng Hàn Quốc bị thua sút về quân số, kỹ năng chiến đấu, và vũ khí, thua vừa số lượng vừa chất lượng, quân lực Triều Tiên vừa đông hơn gấp 3 lần vừa có kỹ năng tác chiến cao hơn nhiều. Đa số quân lính Hàn Quốc là tân binh, chưa kinh qua thực chiến và thậm chí chưa được tập luyện gì nhiều trong thao trường. Các sĩ quan mới toanh còn rất trẻ thì chưa có nhiều thời gian nghiên cứu, học hành, cũng như chưa tốt nghiệp học viện quân sự nào. Lúc này Mỹ cũng đã rút quân từ năm 1950, vì không nghĩ Bắc Triều Tiên dám ngang nhiên bất chấp tất cả mà dám tấn công tổng lực vào Hàn Quốc, bất chấp Liên Hiệp Quốc.
Quân binh Hàn Quốc cũng không có chính nghĩa rõ ràng và thường mơ hồ về lòng trung thành với chính thể họ Lý, không có tâm tình chiến đấu, đào ngũ bỏ trốn, tháo chạy toàn bộ, hoặc đào ngũ hàng loạt sang phía Triều Tiên. Khi cuộc tấn công trên bộ tiếp tục, không quân Triều Tiên tiến hành oanh tạc phi trường Kimpo gần Hán Thành (Seoul). Các lực lượng Triều Tiên chiếm được thủ đô Hán Thành trưa ngày 28 tháng 6.
Tuy nhiên, niềm hy vọng của quần chúng Triều Tiên về việc chính phủ Lý Thừa Vãn đầu hàng vô điều kiện, sự giải tán quân đội bệ rạc Hàn Quốc, và sự thống nhất bán đảo, hòa bình lập lại, Triều Tiên không còn tiếng súng, không còn đổ máu tan thành mây khói khi liên quân LHQ do Mỹ cầm đầu can thiệp vào cuộc chiến.
Các lực lượng Liên Hiệp Quốc do Hoa Kỳ dẫn đầu, bao gồm 39 quốc gia tham gia, trong đó có liên quân 15 nước, với sự cung cấp nguồn nhân lực đáng kể từ Khối thịnh vượng chung Anh quốc. Tất cả các lực lượng này đều tham chiến dưới quyền tổng tư lệnh của Thống tướng Douglas MacArthur, một danh tướng lỗi lạc của Hoa Kỳ, một người rất có tài về quân sự. Đây là một cuộc "đánh hội đồng" thật sự.
Sau khi nghe báo cáo về chiến sự toàn diện nổ ra tại Triều Tiên, tổng thống Mỹ Truman ra lệnh cho tướng MacArthur chuyển vũ khí đạn dược đến cho quân đội Hàn Quốc, dùng phương tiện hàng không để di tản những công dân Hoa Kỳ. Truman phát lệnh cho không quân Hoa Kỳ ồ ạt chống lại các lực lượng Triều Tiên, đồng thời ra lệnh cho Hạm Đội 7 bảo vệ đảo Đài Loan. Với hành động đó ông đã xâm phạm vào chủ quyền mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố, càng làm họ "ngứa ngáy tay chân" muốn nhảy vào cuộc chiến.
Sự can thiệp lớn nhất và đầu tiên của quân đội Mỹ là lực lượng Đặc nhiệm Smith, một bộ phận của sư đoàn 24 Bộ binh Hoa Kỳ đóng ở Nhật Bản. Ngày 5 tháng 7, lực lượng này chiến đấu lần đầu tiên ở Osan và bị quân đội Bắc Triều Tiên đánh bại với tổn thất cao. Lực lượng chiến thắng của Bắc Triều Tiên tiến quân về phía nam, và sư đoàn 24 Mỹ với sức mạnh còn phân nửa bị buộc phải tháo chạy về Taejeon, không ngờ nơi đó đã bị Bắc Triều Tiên đánh chiếm từ trước. Tướng William F. Dean không còn cách nào khác ngoài việc buông súng đầu hàng. Ông ta bị bắt trói đem giải đến trước mặt nguyên soái Kim Nhật Thành rồi bị giam giữ.
Vào tháng 8, Quân đoàn 8 Hoa Kỳ bị quân đội CHDCND Triều Tiên đẩy lui vào một vùng nhỏ trong cạnh đông nam của bán đảo Triều Tiên quanh thành phố Pusan. Ngày 20 tháng 8, MacArthur gởi một thông điệp cảnh báo Kim Nhật Thành rằng ông ta phải chịu trách nhiệm cho các hành động chống lại Liên Hiệp Quốc (Mỹ lúc đó vẫn nấp dưới bóng cờ LHQ).
Vào tháng 9, chỉ còn thành phố Pusan (Phú Sơn) - diện tích bằng khoảng 10% bán đảo Triều Tiên – là vẫn chưa thất thủ. Với sự hỗ trợ tiếp vận lớn lao; không quân yểm trợ, và viện quân, các lực lượng của Hoa Kỳ đã giữ vững được phòng tuyến dọc theo sông Nakdong. Hành động bám giữ liều lĩnh này trở thành nổi tiếng tại Hoa Kỳ với tên gọi là “Vành đai Phú Sơn”.
Mặc dù có quân đội thiện chiến Mỹ vào trực tiếp tham chiến, tình thế vẫn trở nên nguy kịch cho chính phủ Lý Thừa Vãn, và hầu như ai cũng cho rằng Kim Nhật Thành và quân Triều Tiên sẽ thành công trong việc thống nhất bán đảo. Tuy nhiên, khả năng thống nhất Triều Tiên đã tan thành mây khói khi Mỹ quyết tâm đổ đại quân vào cuộc chiến.
Không lực Mỹ đến với số lượng lớn, thực hiện 40 phi vụ một ngày trong những hành động hỗ trợ bộ binh, nhắm vào các lực lượng Triều Tiên nhưng cũng gây ra sự tàn phá to lớn đến dân lành vô tội cũng như các công trình dân sự. Các máy bay ném bom chiến thuật (đa số là oanh tạc cơ B-29 có căn cứ ở Nhật) phá hoại lưu thông đường xá và đường xe lửa trong ban ngày, và tàn phá 32 cây cầu rất quan trọng đối với việc di tản của dân thường. Xe lửa dùng cho dân sự phải nằm chờ đợi lúc ban ngày, bên trong các đường hầm.
Khắp nơi trên Triều Tiên, các máy bay ném bom Hoa Kỳ thi nhau đánh bom các kho tiếp liệu chính và phá hủy các nhà máy lọc dầu và hải cảng nhận hàng nhập cảng như tiếp liệu quân sự để làm cạn kiệt lực lượng Triều Tiên. Không lực hải quân cũng tấn công các điểm chuyển vận. Lực lượng Triều Tiên đã bị kéo giãn ra trên toàn bán đảo, và sự tàn phá do bị các máy bay ném bom của Hoa Kỳ gây ra đã ngăn ngừa đồ tiếp liệu cần thiết tới lực lượng Triều Tiên ở phía Nam.
Trong lúc đó, các căn cứ tiếp liệu tại Nhật Bản đưa vũ khí và binh sĩ Mỹ ào ạt vào Phú Sơn. Các tiểu đoàn xe tăng Hoa Kỳ từ thành phố Cựu Kim Sơn (San Francisco) được cấp bách đưa vào Triều Tiên; vào cuối tháng tám, Hoa Kỳ có trên 500 xe tăng loại trung tại vành đai Phú Sơn. Đầu tháng chín, quân đội Mỹ được củng cố mạnh hơn và đông hơn quân Triều Tiên (Mỹ 18 vạn quân so với Triều Tiên 10 vạn quân, sau này quân số của Mỹ lên tới 48 vạn quân ở bán đảo Triều Tiên, chống nhau với 70 vạn quân Trung Quốc). Vào thời điểm đó, Mỹ bắt đầu mở cuộc tổng phản công.
Đối diện với các cuộc tăng viện áp đảo của liên quân, lực lượng Triều Tiên tự nhận thấy mình có quân số ít hơn và có hỗ trợ tiếp liệu yếu kém. Họ cũng thiếu hỗ trợ của không quân và hải quân so với Hoa Kỳ. Để giảm sức ép đối với vành đai Phú Sơn, thống soái MacArthur đã ra lệnh cho một cuộc đổ bộ từ biển vào bờ xa phía sau phòng tuyến của Triều Tiên tại Inchon, một thành phố và là hải cảng lớn ven bờ biển tây của Hàn Quốc, gần Hán Thành.
Thủy triều dữ tợn và sự hiện hữu của một lực lượng quân địch mạnh làm cho cuộc đổ bộ này trở thành một chiến dịch cực kỳ mạo hiểm, vì nếu thất bại thì coi như toàn quân tiêu diệt, tất cả các thành phần thiện chiến, tinh nhuệ, bản lãnh, dũng cảm nhất mới được chọn để thực hiện chiến dịch này. MacArthur bắt đầu hoạch định chiến dịch này vài ngày sau khi chiến tranh khởi sự nhưng Lầu Năm Góc mạnh mẽ bác bỏ kế hoạch này.
Cuối cùng khi ông được phép, MacArthur tập hợp quân đoàn 10 Hoa Kỳ dưới quyền của Tướng Edward Almond gồm có 70.000 quân từ Sư đoàn Thủy quân lục chiến 1 Hoa Kỳ và Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ và tăng phái với 8.600 quân người Hàn và ra lệnh cho họ đổ bộ tại Inchon trong chiến dịch Chromite. Vào lúc tấn công đổ bộ ngày 15 tháng 9, nhờ vào thám báo của các gián điệp Hàn Quốc, sự cố tình tạo ra thông tin sai lạc và các cuộc pháo kích kéo dài trước khi đổ bộ, thêm vào đó lực lượng Triều Tiên có rất ít quân đóng tại Inchon nên lực lượng Hoa Kỳ chỉ gặp sự chống trả yếu ớt khi họ đổ bộ lên Inchon. Cuộc đổ bộ là một chiến thắng quyết định khi quân đoàn 10 tiến công tràn ngập quân phòng thủ ít hơn và đe dọa bao vây quân đội chính quy của Triều Tiên.
MacArthur nhanh chóng chiếm được Hán Thành. Quân Triều Tiên gần như bị cắt đứt, nhanh chóng rút lui về phía Bắc; khoảng 25.000 đến 30.000 quân phải quay trở lại. Quân đội Mỹ đẩy lui quân Triều Tiên ngược qua vĩ tuyến 38.
Sau đó với lòng tham không đáy, quân lực Mỹ vượt vĩ tuyến 38 tiến quân đánh thẳng vào Bắc Triều Tiên. Sự kiện này đánh dấu khoảnh khắc quan trọng trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ khi các nhà lãnh đạo Mỹ quyết định đi xa hơn là chỉ đơn thuần "ngăn chặn cộng sản”. Các vấn đề khác gồm có tác dụng tâm lý về việc tiêu diệt được một quốc gia theo XHCN và kiểm soát khu vực Đông Bắc Á và đối trọng với Trung - Xô.
Quân đội Mỹ vượt ranh giới vào xâm lấn CHDCND Triều Tiên đầu tháng 10 năm 1950. Quân đoàn 10 Hoa Kỳ đổ bộ từ biển vào bờ tại Wonsan và Iwon. Các lực lượng còn lại của Hoa Kỳ sát cánh với quân đồng minh tiến quân phía bờ tây của Triều Tiên và xâm chiếm được Bình Nhưỡng ngày 19 tháng 10. Vào cuối tháng 10, quân đội Triều Tiên nhanh chóng tan rã, Kim Nhật Thành và bộ chính trị Đảng Lao động Triều Tiên phải thành lập chính phủ lưu vong ở Mãn Châu, Trung Quốc. Lực lượng liên quân đại thắng, tha hồ bắn giết và bắt được hơn 135.000 tù binh.
Hành động vượt vĩ tuyến 38 tấn công tổng lực vào Bắc Triều Tiên của Mỹ đã gây quan ngại lớn cho Trung Quốc. Họ lo rằng sự phiêu lưu quân sự của Mỹ sẽ không dừng lại ở sông Áp Lục, biên giới Triều Tiên - Trung Quốc, mà sẽ mở rộng chiến tranh vào lãnh thổ Trung Quốc. Nhiều người phương Tây bao gồm tướng MacArthur lúc ấy nghĩ rằng mở rộng chiến tranh vào Trung Quốc là điều cần thiết. Tuy nhiên, tổng thống Mỹ Truman và những nhà lãnh đạo Âu - Mỹ khác không đồng ý, và MacArthur được lệnh là phải hết sức cẩn trọng khi tiến tới gần biên giới Trung Hoa.
Nhưng dần dần do thực tiễn phát sinh nhiều vấn đề mới, “tướng ở sa trường không nhất thiết phải làm theo lệnh vua”, MacArthur không còn quan tâm đến lệnh của Truman nữa và cho rằng do Triều Tiên được tiếp tế qua các căn cứ bên trong Trung Hoa cho nên các căn cứ đó phải bị dội bom phá hủy.
Trung Quốc cảnh cáo Hoa Kỳ hãy dừng lại, và tuyên bố rằng nếu Mỹ tiến thêm bước nữa thì họ sẽ can thiệp quân sự để bảo vệ an ninh quốc gia. Chính phủ Mỹ xem những lời cảnh báo này chỉ là "muốn hù dọa Liên Hiệp Quốc" mà thôi và không coi trọng lắm. Ngày 15 tháng 10 năm 1950, Truman đến đảo Wake để họp ngắn ngủi với MacArthur. CIA Hoa Kỳ trước đây có cho Truman biết rằng việc CHND Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến là “không thể nào”. MacArthur cũng cho rằng rằng ít có khả năng xảy ra một cuộc chiến với Trung Hoa. MacArthur ước tính Trung Hoa có vòng quanh 30 vạn quân tại Mãn Châu với khoảng từ 10 đến 12 vạn quân dọc theo sông Áp Lục; phân nửa quân số đó có thể vượt qua sông Áp Lục. Nhưng Trung Hoa không có lực lượng không quân, vì thế "nếu Trung Quốc cố tràn xuống Bình Nhưỡng thì sẽ có một cuộc đại tàn sát đối với chúng." MacArthur đã nhận định như vậy.
Ngày 8 tháng 10 năm 1950, ngày hôm sau khi quân đội Hoa Kỳ vượt vĩ tuyến 38 xâm lược Bắc Triều Tiên và gián tiếp xâm phạm đến an ninh quốc phòng của biên giới Trung Quốc, Mao Trạch Đông phát lệnh tập kết "Chí nguyện quân Trung Hoa" (thực tế chính là quân chính quy Trung Quốc). Ông ra lệnh quân đội di chuyển đến sông Áp Lục dưới sự tổng chỉ huy của danh tướng, thống soái Bành Đức Hoài, sẵn sàng vượt sông.
Mao Trạch Đông điên tiết vì Liên Xô "xúi dại" mình giúp Bắc Triều Tiên đánh Nam Triều Tiên, để sự việc trở thành tồi tệ như thế này, "hư bột hư đường" và nhiều khả năng sẽ "mất cả chì lẫn chài", nên cồ tìm cách "ăn vạ" với Liên Xô và yêu cầu Hồng quân can thiệp vào cuộc chiến, xem đó là một hành động tự vệ cần thiết, một nghĩa vụ quốc tế cao cả của gia đình XHCN.
Mao nói với Stalin: "Nếu chúng ta để cho Hoa Kỳ chiếm đóng toàn Triều Tiên... chúng ta phải chuẩn bị chờ Hoa Kỳ tuyên chiến với Trung Hoa, các ngài cũng không yên." Sau đó thủ tướng Chu Ân Lai đích thân đến Nga để “du thuyết” và giúp tăng thêm cường độ cho những lý lẽ qua điện thoại và thơ từ của Mao Trạch Đông. Trung Quốc trì hoãn các chiến dịch quân sự trong lúc chờ đợi sự tăng viện lớn từ Liên Xô, hủy bỏ những cuộc tấn công đã lên kế hoạch từ 13 tháng 10 đến 19 tháng 10.
Tuy nhiên, sự giúp đỡ của Liên Xô chỉ giới hạn cung cấp yểm trợ bằng không quân không quá 60 dặm Anh (100 km) từ mặt trận. Nhưng các phi cơ Mig-15 hiện đại của Nga là một sự thách thức nghiêm trọng đối với quân lực Hoa Kỳ. Tại một khu vực có biệt danh là "Hành lang Mig", các phi cơ của Nga giữ ưu thế trên không phận địa phương hơn đối thủ với các phi cơ F-80 do Hoa Kỳ chế tạo như Lockheed F-80 Shooting Stars cho đến khi các phi cơ F-86 (North American F-86 Sabre) được khai triển.
Người Trung Hoa rất giận dữ trước việc giúp đỡ dè dặt, thiếu nhiệt tình của Liên Xô vì họ cứ đinh ninh rằng họ đã được hứa cung ứng yểm trợ không lực toàn diện. Hoa Kỳ biết rõ vai trò của Liên Xô nhưng vẫn giữ im lặng để tránh leo thang chiến tranh.
Quân đội Trung Hoa đối mặt với quân đội Hoa Kỳ ngày 25 tháng 10 năm 1950, ban đầu với 27 vạn quân (sau này trong thời điểm cao nhất là 70 vạn quân, tổng số quân Tàu tham chiến ở Bắc Triều Tiên là gần 100 vạn quân, con số kỷ lục) dưới quyền tổng tư lệnh của danh tướng Bành Đức Hoài khiến cho Mỹ bị bất ngờ vì không lường trước được Trung Hoa có thể huy động mức độ quân số đông đảo đến như vậy ngay từ đầu, trái với mọi dự tính của danh tướng MacArthur. MacArthur chỉ tính đến những đơn vị Trung Hoa ở gần biên giới Triều Tiên, ông ta không ngờ nguyên soái Bành Đức Hoài lại tập trung đại quân một cách bí mật và siêu tốc đến vậy, không ngờ khả năng bảo mật thông tin lạc hậu của Trung Quốc lại hiệu quả đến thế. Trong cuộc đấu trí quân sự ngoạn mục giữa hai đại danh tướng, MacArthur đã thua Bành Đức Hoài ván này, sau khi đã chiến thắng Kim Nhật Thành trong "hiệp 1".
Tuy nhiên, quân đội chuyên nghiệp Hoa Kỳ, vốn từng vào sinh ra tử trên khắp chiến trường thế giới trong Thế chiến 2 chống phát xít, với vũ khí cá nhân tối tân, binh sĩ thao luyện kỹ, kỹ năng chiến đấu cá nhân cao và khả năng tác chiến tập thể tốt, vũ khí chiến lược và chiến thuật hiện đại, nên sau bất ngờ ban đầu họ đã lập tức trở về trạng thái bình thường và nhanh chóng lấy lại ưu thế.
Sau những vụ đụng độ sau đó, Bành Đức Hoài thấy quân mình lép vế, hao tổn nhiều sinh lực và thất bại trong những trận giáp chiến xáp lá cà khi những quân lính người Hoa nhỏ con, gầy ốm, xanh xao, thiếu ăn phải đánh xáp lá cà trong một phạm vi hẹp với những chiến binh người Mỹ đô con, to cao, lực lưỡng, được luyện tập võ thuật chu đáo, và với các vũ khí cá nhân tốt, nên đã quyết định rút lui vào trong vùng rừng núi.
Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc lại xem sự rút lui của này như là một dấu hiệu yếu thế và đánh giá sai lầm trầm trọng khả năng tác chiến của Giải phóng quân Trung Quốc. Thế nên các lực lượng Hoa Kỳ tiếp tục tiến công về sông Áp Lục không đếm xỉa gì đến những lời cảnh cáo của Trung Hoa.
Tình báo Hoa Kỳ sơ sài trong suốt giai đoạn này vì nhiều lý do, đã hoạt động không hiệu quả tại Bắc phần Triều Tiên cũng như đã từng không hữu hiệu tại Nam phần Triều Tiên trong những ngày có cuộc bao vây tại Vành đai Pusan.
Lính Trung Quốc hành quân bằng cách đi bộ và ngủ trong rừng nên giảm thiểu tối đa sự phát hiện của đối phương. Trong một trường hợp có ghi chép kỹ càng, một quân đoàn của TQ gồm có ba sư đoàn hành quân bằng chân đất từ An Tung ở Mãn Châu, phía Bắc cách sông Áp Lục khoảng 286 dặm (460 km) đến nơi tập kết tại Triều Tiên trong khoảng một thời gian dài từ 16 đến 19 ngày. Một sư đoàn của quân đoàn này hành quân vào ban đêm trên những con đường núi ngoằn ngoèo, trung bình đi được 18 dặm (29 km) một ngày trong vòng 18 ngày.
Cuộc hành quân trong ngày bắt đầu từ sau khi chập tối lúc 19 giờ và kết thúc lúc 3 giờ sáng hôm sau. Những phương án trú ẩn chống phi cơ phải hoàn thành trước 5 giờ 30 sáng. Tất cả mọi người, thú vật và các trang bị được giấu đi hay ngụy trang. Trong ban ngày chỉ có các nhóm trinh sát được ngụy trang di chuyển về phía trước để chọn lựa khu đóng quân ngoài trời của ngày hôm sau. Khi các đơn vị của Trung Hoa bắt buộc phải hành quân vào ban ngày vì bất cứ lý do gì, họ luôn tuân thủ lệnh dừng lại ngay tại chỗ và không cử động khi có phi cơ xuất hiện trên đầu. Các sĩ quan có quyền bắn bỏ bất cứ binh sĩ nào vi phạm lệnh này.
(Bản đồ trận Hồ nước Chosin)
Cuối tháng 11, quân Trung Hoa đánh vào phía Tây, dọc theo sông Chongchon, và hoàn toàn tràn ngập một số sư đoàn Hoa Kỳ và thành công gây một đòn chí tử vào sườn các lực lượng còn lại của các lực lượng đồng minh. Sự bại trận của Quân đoàn 8 Hoa Kỳ tạo nên một cuộc rút lui dài nhất của một đơn vị quân sự Hoa Kỳ trong lịch sử.
Tại miền Đông, trong trận Hồ nước Chosin, một đơn vị 3 vạn người của Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ cũng chưa chuẩn bị kịp cho những cuộc tấn công chiến thuật của quân đội Trung Quốc, chẳng bao lâu Mỹ bị bao vây, mặc dù cuối cùng họ phá được vòng vây nhưng bị thương tổn khoảng 15.000 quân. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ vốn rất thiện chiến đã bị đánh tan tác tại trận này và phải rút lui, tuy nhiên họ cũng đã gây thiệt hại nặng nề cho 6 sư đoàn CHND Trung Hoa.
Trong khi các binh sĩ Trung Hoa ban đầu thiếu yểm trợ của hỏa lực nặng và vũ khí bộ binh hạng nhẹ, chiến thuật của họ nhanh chóng điều chỉnh thích hợp cho sự bất lợi này như Bevin Alexander có giải thích trong cuốn sách của ông có tựa đề là "How Wars Are Won" (Cách thế nào để thắng các cuộc chiến tranh) :
Phương cách thông thường là xâm nhập các đơn vị nhỏ của địch từ một trung đội 50 người đến một đại đội 200 người, bằng cách phân tán thành nhiều nhóm riêng lẻ. Trong lúc một đội cắt đường rút lui của người Mỹ, các đội khác đánh thẳng cả mặt trước và hai bên sườn trong các cuộc tiến công phối hợp nhịp nhàng. Các cuộc tiến công tiếp tục vào các phía cho đến khi những người phòng thủ bị tiêu diệt hoặc bắt buộc phải rút lui. Người Trung Hoa bò lên phía trước đến sườn mở nơi đóng chốt của trung đội kế tiếp và lập lại chiến thuật này.
Roy Appleman làm sáng tỏ hơn các chiến thuật ban đầu của Trung Hoa như sau:
Trong giai đoạn đầu tiến công, các lực lượng bộ binh thiện chiến nhẹ đã thực hiện các cuộc tấn công của Trung Hoa, nói chung không được yểm trợ với bất kỳ loại vũ khí hạng nặng nào ngoài súng cối (mortars). Các cuộc tấn công đã chứng minh rằng binh sĩ Trung Hoa là những chiến binh có kỷ luật và được huấn luyện kỹ lưỡng, và đặc biệt lão luyện trong chiến đấu về đêm. Họ có tài về nghệ thuật ngụy trang. Các đội trinh sát rất thành công đáng kể trong việc phát hiện các vị trí của các lực lượng Liên Hiệp Quốc. Họ hoạch định các cuộc tấn công vào phía sau lưng của các lực lượng này, cắt đường rút lui và đường tiếp vận của quân địch, và rồi sau đó xung trận đánh vào mặt trước và bên sườn để kết thúc trận chiến. Họ cũng áp dụng một chiến thuật gọi là Hachi Shiki tạo thành một đội hình chữ V mà họ để cho quân địch di chuyển trong đó; hai cạnh của chữ V sau đó được khép lại quanh quân địch trong khi đó một lực lượng khác di chuyển phía dưới miệng chữ V để đón chặn bất cứ lực lượng nào cố giải vây cho đơn vị bị bao vây. Các chiến thuật như thế của Trung Quốc đã được sử dụng với những thành công to lớn tại Onjong, Unsan, và Ch'osan, nhưng chỉ thành công một phần tại Pakch'on và Ch'ongch'on.
Lực lượng Hoa Kỳ tại vùng Đông Bắc Triều Tiên, từng tiến công chớp nhoáng chỉ một vài tháng trước đây, bị bắt buộc phải nhanh chân hơn nữa rút về miền Nam để hình thành một vành đai phòng thủ quanh thành phố hải cảng Hungnam nơi mà sau đó một cuộc di tản lớn được thực hiện cuối tháng 12 năm 1950.193 lượt tàu chở các quân nhân Mỹ và trang thiết bị đã rời bến di tản khỏi Bến cảng Hungnam. Khoảng 10 vạn binh sĩ, 17.500 xe các loại, và 350.000 tấn tiếp liệu được tàu chở đến Pusan trong vòng trật tự. Khi họ đã bỏ đi, các lực lượng Mỹ đã thiêu hủy, san bằng thành phố, và phá hủy tất cả không cho quân đội Trung Quốc sử dụng. Hành động tàn bạo này đã khiến nhiều dân lành trở thành vô gia cư và không có nơi trú thân trong mùa đông, làm nhiều thường dân phải chết cóng.
Tháng giêng năm 1951, Bành nguyên soái lại đánh mạnh trong giai đoạn tiến công thứ ba (được biết với tên gọi Cuộc Tổng tấn công mùa đông). Quân Trung Hoa sử dụng lại các chiến thuật trước đây của họ là tấn công chủ yếu vào ban đêm với cách đánh thăm dò từ các vị trí xa mặt trận theo sau là một đợt xung phong với số lượng quân áp đảo, và dùng kèn, cồng chiêng để liên lạc và đánh lạc hướng quân địch. Kết hợp giữa chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung, nghi binh, đánh úp, đánh trộm, và quấy rối thường xuyên, tập kích trong khi lực lượng Liên Hiệp Quốc đang ngủ ban đêm, dùng loa la ó hò hét tuyên truyền và kêu gọi đầu hàng, quấy rối không cho các lực lượng LHQ ngủ, nghỉ. Mặc dù không thành công trong các mưu kế dụ địch vào địa điểm phục binh, nhưng các chiến thuật tác chiến khác của Bành Đức Hoài đã phát huy hiệu quả rất tốt. Quân đội Mỹ không có thuốc trị cho những chiến thuật này, và sức kháng cự của họ sa sút nên họ rút lui nhanh về miền Nam. Thủ đô Hán Thành bị bỏ lại và bị đại binh Trung Quốc chiếm đóng vào ngày 4 tháng 1 năm 1951.
Khó khăn thêm gia tăng cho Quân đoàn 8 Hoa Kỳ khi tướng Walker bị tử trận. Trung tướng Matthew Ridgway, một người hùng và là một cựu chiến binh nhảy dù trong Thế chiến 2 lên thay thế và nhanh chóng từng bước nâng sĩ khí và tinh thần chiến đấu của Quân đoàn 8 vốn đang kiệt quệ và sa sút trong cuộc rút lui chiến thuật. Tuy nhiên tình thế quá bi quan đến nỗi tướng Douglas MacArthur kêu gào hăm dọa sử dụng vũ khí hạt nhân chống Bình Nhưỡng và Bắc Kinh, dọa sẽ biến Mãn Châu thành tro bụi, những lời đe dọa này của tướng MacArthur gây nhiều báo động cho quốc tế. Liên Xô và Trung Quốc lập tức bám vào những lời tuyên bố kém chính trị của MacArthur, nhắc lại việc Mỹ dội bom nguyên tử xuống Nhật và dọa sẽ đưa Mỹ ra tòa án quốc tế vì tội ác chiến tranh diệt chủng và tội ác chống loài người, và dọa họ nhất địnhh sẽ làm vậy nếu Mỹ còn dám có ý nghĩ về việc dùng vũ khí hạt nhân. Sau này những người lãnh đạo Hoa Kỳ bào chữa rằng đó chỉ là chiến tranh tâm lý chứ MacArthur không có ý định sử dụng bom hạt nhân, và đó chỉ là ý kiến riêng của cá nhân MacArthur chứ không phải là quan điểm chung của chính phủ chúng tôi.
Quân đội Mỹ tiếp tục tháo lui cho đến khi họ tới phòng tuyến chạy dài từ phía Nam Suwon ở miền Tây, Wonju ở giữa, và phía Bắc Samchok ở miền Đông là nơi mặt trận được ổn định. Quân Trung Hoa đã bỏ xa đường tiếp vận của họ và bắt buộc phải lùi lại. Quân Trung Hoa gặp khó khăn khi tiến ra xa khỏi Hán Thành vì họ đang ở cuối đường vận chuyển tiếp liệu, tất cả lương thực và đạn dược phải được vận chuyển vào ban đêm bằng chân hoặc xe đạp từ sông Áp Lục.
Cuối tháng giêng, sau khi nhận thấy các phòng tuyến phía trước lực lượng Hoa Kỳ bị bỏ hoang, tướng Ridgway ra lệnh tiến hành thám thính mà sau đó biến thành một cuộc tiến công toàn diện có tên gọi là "Operation Roundup" (Chiến dịch Bố ráp). Chiến dịch được hoạch định tiến hành từng bước một, lợi dụng ưu thế hỏa lực trên mặt đất và nhất là trên không của Mỹ. Vào lúc kết thúc Chiến dịch Bố ráp vào đầu tháng hai, quân Mỹ đã tiến tới sông Hán và tái chiếm Wonju.
Trung Quốc phản công vào giữa tháng hai bằng cuộc tiến công giai đoạn 4 từ Hoengsong ở miền Trung chống các vị trí của Quân đoàn 9 Hoa Kỳ quanh Chipyong-ni. Các đơn vị của sư đoàn 2 Bộ binh Hoa Kỳ, gồm có tiểu đoàn Pháp tại Triều Tiên đã đánh trả một cuộc bao vây ngắn ngủi nhưng dữ dội và cuối cùng phá vỡ cuộc tiến công này. Trong trận đánh này, Mỹ và đồng minh đã học được cách đối phó với các chiến thuật tấn công của Trung Quốc và có thể giữ vững trận địa, do đó họ đã chống trả rất dũng cảm.
Chiến dịch Bố ráp được theo sau trong hai tuần cuối của tháng hai năm 1951 bằng Chiến dịch Sát thủ (Operation Killer) do Quân đoàn 8 của Hoa Kỳ đảm nhiệm, họ chiến đấu rất hung hãn. Đây là một cuộc tiến công toàn diện ngang qua mặt trận, lần nữa được hoạch định tăng cường tối đa hỏa lực với mục đích gây thiệt hại nặng nề cho các quân đoàn Triều Tiên và Trung Hoa. Vào cuối Chiến dịch Sát thủ, Quân đoàn 1 Hoa Kỳ đã tái chiếm lại được tất cả các lãnh thổ phía Nam sông Hán, trong khi Quân đoàn 9 tái chiếm Hoengsong, đánh bại Bành Đức Hoài và quân Trung Quốc.
Ngày 7 tháng 3 năm 1951, Quân đoàn 8 Hoa Kỳ lại thọc mạnh về phía trước trong Chiến dịch Ripper, và vào ngày 14 tháng 3 họ đã đẩy lui quân đội Trung Hoa ra khỏi thủ đô Hán Thành (Seoul), đây là lần thứ tư trong một năm thành phố này đổi chủ. Hán Thành ở trong cảnh hoang tàn đổ nát; dân số của thành phố trước chiến tranh là 1,5 triệu người đã giảm xuống còn 200.000 người và thiếu thực phẩm trầm trọng.
Sau khi đánh bại quân Trung Hoa chiếm lại Hán Thành, gây tổn thương nặng nề cho Trung Quốc, Douglas MacArthur trở nên kiêu căng, ngạo mạn, lớn lối, cực đoan hơn, phát biểu thêm nhiều lộng ngôn kém chính trị, gây hại cho hình ảnh nước Mỹ và chính phủ, sự khác biệt, bất đồng, mâu thuẫn, bất mãn với chính quyền trung ương Mỹ và tổng thống Truman ngày càng sâu, không muốn nghe lệnh chính phủ trung ương mà chỉ muốn độc đoán tự quyết định, có dấu hiệu lộng quyền, trở thành một vị tướng bất trị, một con ngựa bất kham, nên đã bị tước quyền tư lệnh bởi Truman ngày 11 tháng 4 năm 1951 vì tội “bất tuân thượng lệnh”.
Quyết định bất ngờ và khó hiểu này của tổng thống Mỹ ngay trong lúc quân Mỹ đang trên đà chiến thắng đã gây tranh cãi rất nhiều và gây ra một làn sóng phản đối và mâu thuẫn nội bộ trong chính quyền và giới chức quân sự Hoa Kỳ. Cuộc đụng độ lịch sử giữa 2 vị tướng lừng danh đã trở thành một quả đắng cho tướng MacArthur. Trong cuộc thi thố tài năng quân sự, đọ trí đấu mưu, Bành Đức Hoài đã thắng MacArthur. Sau khi MacArthur bị tước quyền hành và bắt phải về nước, Bành Đức Hoài vui mừng ra mặt, nói với các đồng chí của ông đại ý: Truman ngốc thật, Nhạc Phi đã bị hoàng đế triệu về, để xem cách nào chúng nó thắng chúng ta được đây.
Nhưng Bành Đức Hoài đã vui mừng quá sớm, sau khi loại được MacArthur, Bành và giới quân sự Trung Quốc trở nên chủ quan. Họ không biết Tư lệnh tối cao mới, tướng Ridgway cũng là một tường có nhiều quân công, chiến tích trong Thế chiến 2 chống phe Trục, biết cách động viên và thu phục lòng trung thành, cống hiến của quân đội, được nhiều chuyên gia Hoa Kỳ xem là một nhà quân sự có tài ngầm (underate), thực tài có lẽ không thua kém MacArthur bao nhiêu. Ông ta tiến hành củng cố quân đội Mỹ và các đàn em để chuẩn bị cho một loạt các cuộc phản công hiệu quả. Tư lệnh Quân đoàn 8 được chuyển qua cho tướng James Van Fleet thống lãnh.
Một loạt các cuộc tấn công sau đó từ từ đẩy lui quân đội Trung Quốc như các chiến dịch Courageous và Tomahawk, một cuộc công kích kết hợp giữa lục quân và không quân đã vây hãm quân đội CHND Trung Hoa giữa Kaesong và Seoul. Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục thừa thắng xông lên cho đến khi họ tới được phòng tuyến Kansas, cách vĩ tuyến 38 một khoảng mấy dặm về phía Bắc.
Tuy nhiên quân đội Bành Đức Hoài khó thể bị đánh bại. Tháng tư năm 1951 họ mở đợt tiến công giai đoạn năm. Đây là một nỗ lực chính có sự tham dự của 3 quân đoàn, tổng cộng lên đến 70 vạn quân. Quả đấm thôi sơn giáng thẳng vào Quân đoàn 1 Hoa Kỳ nhưng sự chống trả dũng mãnh trong các trận đánh tại sông Imjin và Kapyong đã làm chậm lại tiến trình, quân Tàu bị chặn đứng ở phòng tuyến phía Bắc Seoul.
Một cuộc tiến công của Trung Quốc sau đó ở Trung phần Triều Tiên, chống Quân đoàn 10 Hoa Kỳ và lực lượng Liên Hiệp Quốc vào ngày 15 tháng 5 cũng đạt được những thành công ban đầu, nhưng vào 20 tháng 5 cuộc tấn công phải ngừng lại. Quân đoàn 8 Hoa Kỳ phản công mạnh và đến cuối tháng 5 thì chiếm lại phòng tuyến Kansas. Liên Hiệp Quốc, Mỹ và đồng minh quyết định dừng lại ở phòng tuyến Kansas, nằm ở phía Bắc vĩ tuyến 38.
(Lãnh thổ đổi chủ trong phần đầu của cuộc chiến cho đến khi mặt trận được ổn định)
Phần còn lại của cuộc chiến bao gồm chút ít sự thay đổi về lãnh thổ, các cuộc oanh tạc tầm mức rộng lớn vào lãnh thổ CHDCND Triều Tiên và dân cư của họ, và các cuộc thương thuyết hòa bình kéo dài bắt đầu từ 10 tháng 7 năm 1951 tại Kaesong giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Thậm chí trong suốt các cuộc thương thuyết hòa bình, chiến sự vẫn tiếp tục, hai bên vẫn "vừa đánh vừa đàm".
Mao Trạch Đông cố mở các chiến dịch quân sự nhằm thử quyết tâm của Truman xem có dám tiếp tục cuộc chiến. Các cuộc đụng độ quân sự chính yếu trong giai đoạn này là những hành động quanh lòng chảo phía đông như Bloody Ridge và Heartbreak Ridge năm 1951, các trận đánh như Trận Old Baldy ở giữa và Trận Hook ở phía Tây trong suốt năm 1952–53, Trận Đồi Eerie năm 1952, và Trận Đồi Pork Chop năm 1953.
Tháng 10 năm 1951, Hoa Kỳ tiến hành chiến dịch Cảng Hudson với ý định thiết lập khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Một số phi cơ B-29 thực hiện các phi vụ tập ném bom giả từ Okinawa đến Triều Tiên mang theo các quả bom hạt nhân "hình nộm" hoặc các loại bom thông thường hạng nặng. Chiến dịch được điều hợp từ Căn cứ Không quân Yokota tại Nhật Bản. Cuộc tập trận này có ý định thử chức năng thật sự của tất cả các hoạt động sẽ cần dùng trong một tấn công bằng vũ khí hạt nhân, bao gồm việc lắp ráp vũ khí và thử nghiệm, hướng dẫn, kiểm soát mặt đất về mục tiêu ném bom. Kết quả cho thấy bom hạt nhân không hiệu quả như là tiên đoán bởi vì việc phát hiện số đông lực lượng địch kịp thời thì quả là hiếm hoi. Việc này đã làm cho dư luận thế giới lên án Mỹ. Sau này các sử gia vẫn tranh cãi liệu đây là ý định thật của Mỹ hay chỉ là trò chơi tâm lý chiến để răn đe Trung Quốc, Liên Xô, và khối cộng sản.
Trong cuốn "The Origins of the Korean War" xuất bản vào các năm 1981, 1990, sử gia người Mỹ Bruce Cummings cho biết rằng trong một cuộc họp báo ngày 30 tháng 11 năm 1950, những lời ám chỉ tấn công bằng vũ khí hạt nhân của Tổng thống Truman là lời đe dọa dựa trên kế hoạch bất ngờ sử dụng bom hạt nhân, chớ không phải lỡ lời như nhiều người lầm tưởng. Ngày 30 tháng 11 năm 1950, Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược của Không quân Hoa Kỳ được lệnh gia tăng khả năng của mình, và sự gia tăng này gồm có khả năng nguyên tử.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 1952, tổng thống mới đắc cử là Dwight D. Eisenhower đã thực hiện lời hứa lúc tranh cử là đến Triều Tiên để tìm ra giải pháp để kết thúc cuộc chiến trong danh dự. Với việc chấp thuận lời đề nghị ngưng bắn của Ấn Độ, một cuộc ngưng bắn được thiết lập vào ngày 27 tháng 7 năm 1953 vào thời điểm tuyến đầu mặt trận quay trở lại quanh vĩ tuyến 38, và vì vậy một vùng phi quân sự được thiết lập quanh đó, được quân đội Trung Quốc phòng thủ một phía và phía bên kia là quân đội Hoa Kỳ.
Nơi có các cuộc thương thảo hòa bình, Kaesong, cố đô của Triều Tiên, là phần đất của Hàn Quốc trước khi chiến sự bùng nổ nhưng nay là một thành phố đặc khu của CHDCND Triều Tiên. Nhiều lãnh thổ khác trước chiến tranh thuộc Bắc Triều Tiên, sau chiến tranh lại thuộc Nam Triều Tiên. Cho đến ngày nay vẫn không có một hiệp ước hòa bình nào được ký kết, về mặt kỹ thuật và pháp lý, Đại Hàn Dân Quốc và CHDCND Triều Tiên vẫn còn đang trong tình trạng chiến tranh, mặc dù hai bên đã ký kết Hiệp ước Đình chiến.
Trong thời gian đầu năm 1950, quân đội Triều Tiên và quân đội Hàn Quốc tuần tra quanh khu vực vĩ tuyến 38 đã liên tục nảy sinh những xung đột quân sự, lúc thì quân Triều Tiên vượt ranh giới xâm phạm trước, khi thì quân Hàn Quốc nổ súng trước, vượt làn ranh vào trong lãnh thổ của Triều Tiên và bắn phá vào người Triều Tiên, gây ra nhiều cuộc chạm súng nảy lửa quanh vĩ tuyến 38.
Năm 1950, Kim Nhật Thành bị Trung Quốc từ chối viện trợ và giúp đỡ Triều Tiên tiến hành những biện pháp quân sự để thống nhất Tổ quốc. Trung Quốc không muốn các quốc gia láng giềng của mình, trong đó có Triều Tiên, đủ mạnh mà chỉ muốn giữ cho họ đủ sống trong thoi thóp và vật vờ, phải dựa dẫm vào Trung Quốc, đồng thời muốn sử dụng họ làm một trái độn, một vành đai an ninh, phòng tuyến an toàn, làm một lá chắn để che chở cho Trung Quốc khỏi chủ nghĩa bành trướng quốc tế của Mỹ và phương Tây, bảo vệ an ninh quốc phòng cho Trung Quốc, giữ cho biên giới Trung Quốc được ổn định và giữ một khoảng cách an toàn đối với các thế lực tư bản Mỹ - Tây.
Do không được Trung Quốc tán thành và ủng hộ, Kim Nhật Thành phải hướng về Liên Xô cầu viện. Báo Hồng Kông “Bưu điện Hoa Nam buổi sáng” ngày 25/7/2010 dẫn các hồ sơ lịch sử mới được bạch hóa ở Trung Quốc cho thấy ban đầu, chủ tịch Mao Trạch Đông đã phản đối quyết liệt kế hoạch tấn công Hàn Quốc của Bình Nhưỡng cho tới 6 tuần trước khi nổ ra cuộc Nam tiến, và Mao Trạch Đông chỉ thay đổi chính sách sau ý kiến của Stalin. Sau khi Stalin yêu cầu hỗ trợ, Mao Trạch Đông đã thay đổi quyết định và trở thành người ủng hộ cuộc chiến này.
Theo cuốn sách “Mao Trạch Đông, Stalin và Chiến tranh Triều Tiên” của tác giả Thẩm Chí Hoa dựa trên các tài liệu chính thức, Trung Quốc cũng không được chia sẻ thông tin về kế hoạch tấn công Hàn Quốc của CHDCND Triều Tiên. Ngày 19/1/1950, Kim Nhật Thành nói với đại sứ Liên Xô tại Bình Nhưỡng rằng ông ta có kế hoạch giải phóng Tổ quốc. Được tin đó, Stalin gửi một bức điện với nội dung ủng hộ kế hoạch, nhưng không nói gì với Mao Trạch Đông, lúc này đang thăm Điện Cẩm Linh. Stalin cũng đồng ý viện trợ trong năm 1950 vũ khí và trang thiết bị đã cam kết cho năm 1951, để Kim Nhật Thành có thể tăng thêm 3 sư đoàn, nâng quân đội Bắc Triều Tiên lên 10 sư đoàn. Kim Nhật Thành bảo đảm với Stalin rằng ông ta có thể bình định xong Hàn Quốc trước khi Liên Hiệp Quốc, người Mỹ, và thế giới phương Tây có thời gian cũng như ý định can thiệp.
Mục đích của Stalin là muốn dùng các cảng không bao giờ bị đóng băng là Inchon và Pusan cho hải quân Liên Xô, thay thế cho việc mất cảng Đại Liên (Trung Quốc) mà quân đội Liên Xô đã kiểm soát trong tháng 8/1945. Hồi tháng 3/1949, Moscow và Bình Nhưỡng đã đồng ý xây dựng một tuyến đường sắt nối liền hai nước và vận chuyển hàng hóa qua hai cảng này. Phải đến cuối tháng 4/1950, Kim Nhật Thành mới cử một đặc phái viên hàng đầu đến Bắc Kinh để thông báo cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc về kế hoạch tấn công Hàn Quốc. Mao phản đối mạnh mẽ cuộc chiến, nói rằng ông không thể giúp gì được, phải lo duy trì ổn định tình hình trong nước của Trung Quốc trước tiên, các đồng chí không nên đánh Hàn Quốc, mà chỉ nên "trường kỳ kháng chiến", "trường kỳ mai phục", "việc thống nhất là việc lâu dài, việc tương lai sau này", "cứ để con cháu chúng ta thống nhất, đó là việc mai sau, là việc của các thế hệ sau". Tuy nhiên, Mao cũng chấp thuận cho hàng ngàn người Triều Tiên phục vụ trong hàng ngũ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trở về phục vụ trong quân đội của Kim Nhật Thành.
Theo đề nghị của Stalin, đích thân Kim Nhật Thành đến Bắc Kinh ngày 13/5/1950 để cố thuyết phục Mao Trạch Đông. Cuộc mật đàm gay gắt kéo dài đến tận đêm mà hai bên vẫn không đạt được thỏa thuận nào. Ngày sau đó, Stalin đã gửi cho Mao Trạch Đông một bức điện nói rằng vì những thay đổi trong trật tự quốc tế, giới lãnh đạo Liên Xô đã thông qua kế hoạch của Bắc Triều Tiên: “Vấn đề này phải được các đồng chí Triều Tiên và Trung Quốc giải quyết. Các đồng chí Triều Tiên sẽ đưa cho ông một thông báo chi tiết về các cuộc trao đổi của họ với chúng tôi”.
Kim Nhật Thành phát động cuộc tấn công vào ngày 25/6/1950 và đã thành công lớn. Nhưng sang tháng 7, Hoa Kỳ dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc nhảy vào cuộc chiến và đẩy lui các lực lượng Bắc Triều Tiên. Kim Nhật Thành khiếp sợ khi chứng kiến sức mạnh tàn phá hủy diệt ghê gớm của không quân Mỹ mà Bắc Triều Tiên không có cách nào ngăn chặn được. Nhà lãnh đạo này gửi một bức điện tới Stalin, xin được hỗ trợ quân sự mà nếu không từ Liên Xô được thì cũng từ các quốc gia đồng minh khác của Liên Xô.
Không muốn gửi quân và đối mặt với nguy cơ gây chiến cùng Mỹ, Stalin gửi một bức điện cho Mao Trạch Đông: “Theo tình hình hiện nay, nếu Trung Quốc có thể hỗ trợ quân sự cho Bắc Triều Tiên thì 5-6 sư đoàn sẽ là ổn thỏa để tiến tới vĩ tuyến 38. Vai trò của họ sẽ là quân tình nguyện và dĩ nhiên, họ nằm dưới sự chỉ huy của Trung Quốc”. Ngày 1/10/1950, Mao Trạch Đông tổ chức một cuộc họp khẩn Ban Bí thư Trung ương Đảng, bao gồm Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai. “Các ý kiến chia rẽ, nhưng với sự ủng hộ của Chu Ân Lai, quyết định cử quân của Mao Trạch Đông đã thắng”. Được chọn làm chỉ huy quân Chí nguyện Trung Quốc tham gia cuộc chiến “Kháng Mỹ viện Triều”, Bành Đức Hoài tham dự một cuộc họp khác tại Trung Nam Hải vào ngày 4/10/1950. Viên tướng này kể lại: “Bầu không khí rất không bình thường. Sự khác biệt trong các ý kiến là rất lớn. Tôi không thể đưa ra một ý kiến nào”. Ngày 19/10/1950, quân Chí nguyện vượt sông Áp Lục và ngày 25/10 cùng năm, họ đụng độ với các lực lượng LHQ do Mỹ đứng đầu.
Nhà báo Kim Chung, biên tập viên của tờ “Khai phóng” (một tạp chí Hồng Kông chuyên về chính trị Trung Quốc) cũng cho biết: “Mao Trạch Đông ủng hộ cuộc chiến. Ông ta nói rằng chỉ 1,5 người ủng hộ, bao gồm ông ta và Chu Ân Lai ủng hộ một nửa. Tất cả các nhà lãnh đạo khách đều phản đối. Họ cho rằng Trung Quốc vừa kết thúc một cuộc nội chiến dài và đang chịu cảnh bị tàn phá. Giờ là lúc cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông quyết định tham chiến để chiều lòng Stalin, đại ca của phong trào Cộng sản toàn cầu và để bảo đảm sự hỗ trợ của Liên Xô cho Trung Quốc”.
Quân đội Trung Quốc tham gia chiến tranh Triều Tiên được gọi là “quân Chí nguyện” để tránh một cuộc chiến chính thức với Mỹ. Họ đã có những thành công đáng kể trước đối thủ được trang bị tốt nhất và có công nghệ cao nhất thế giới. Đến Giáng sinh năm 1950, quân Trung Quốc đã có thể chiếm lại phần lớn vùng lãnh thổ mà quân đội Bắc Triều Tiên bị đẩy lùi trước đó. Quân đội Trung Quốc đánh chiếm Bình Nhưỡng từ tay Mỹ vào ngày 4/1/1951 nhưng bị đánh bật một lần nữa trong tháng 3. Đến tháng 6, hai bên rơi vào thế giằng co dọc vĩ tuyến 38. Phải mất 2 năm để đạt được thỏa thuận ngừng bắn.
Để chống lại sức mạnh áp đảo của không quân Mỹ, Stalin buộc phải gửi hàng trăm máy bay chiến đấu MiG. Không quân Liên Xô đào tạo các phi công Trung Quốc hoặc dùng phi công của mình mặc quân phục Trung Quốc và nói tiếng Trung để vẫn giả vờ rằng Liên Xô không can thiệp và tránh xung đột trực tiếp với Mỹ.
Nhà sử học Trần Lâm (Trung Quốc) cho rằng động cơ của Mao Trạch Đông khi tham chiến là để thu hút sự chú ý và công nhận Trung Quốc như một cường quốc, đồng thời đoàn kết người dân trong một cuộc chiến yêu nước. Nhà sử học này cũng bình luận: “Kim Nhật Thành đã rất ngạo mạn, tự tin vào sự siêu việt của các trang thiết bị do Liên Xô chế tạo và cho rằng có thể thắng nhanh chóng trước khi bên ngoài can thiệp. Ông ta đã mắc một sai lầm lớn, cũng như tổng tư lệnh Mỹ MacArthur khi cho rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ nhập cuộc. Cả hai đều quá kiêu căng”.
Nhà bình luận Kim Chung thì cho rằng sự can thiệp của Mỹ đã cứu không chỉ Hàn Quốc mà cả Đài Loan: Nếu không có cuộc chiến, Mao Trạch Đông đã dồn sức giải phóng Đài Loan, thống nhất 1 nước Trung Quốc, dùng các làn sóng người làm chiến thuật. Hàng nghìn người sẽ thiệt mạng, nhưng ông ta sẽ thành công. Chiến tranh Triều Tiên đã ngăn cản được điều đó.
Sau khi được Liên Xô và Trung Quốc đồng thuận hậu thuẫn, Kim Nhật Thành và quân đội Triều Tiên tiến hành cuộc "Chiến tranh Giải phóng Tổ quốc", nhằm mục đích thống nhất bán đảo Triều Tiên, hợp nhất hai quốc gia.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới quyết định tiến hành giải phóng Nam Triều Tiên là do nhiều chiến dịch khủng bố "Sát Cộng", "Diệt Cộng", "Thánh chiến phản Cộng" vô cùng tàn ác mà chính phủ Lý Thừa Vãn đã tiến hành ở miền Nam Triều Tiên trong suốt giai đoạn 1947 – 1950, mà đỉnh cao là cuộc chôn sống tập thể gần 400 người, trong đó có nhiều phụ nữ, cụ già, trẻ em, thậm chí cả những người đàn bà đang mang thai. Những cuộc thảm sát ở miền Nam Triều Tiên lâu nay bị bưng bít rất kín và chỉ được đưa ra ánh sáng từ năm 2001 đến nay, một số phóng viên có lương tâm trong đài CNN đã đi tiên phong trong việc này.
(Tranh vẽ cuộc đại thảm sát Triều Tiên (1951) của họa sĩ nổi tiếng Picasso. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và đã họa lại cuộc thảm sát ghê tởm đó.)
Khả năng chính trị hạn chế của Triều Tiên, cộng với ngoại giao kém, tuyên truyền kém, uy tín, tầm vóc của chủ tịch Kim Nhật Thành ở miền Nam lại không được như ở miền Bắc, không huy động nổi một cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam, và sự thiếu quyết tâm và thờ ơ với chính trị của người dân Nam Triều Tiên, khiến cho những phong trào đấu tranh, chống đối ở phía Nam Triều Tiên bị đàn áp và dẹp bỏ dễ dàng. Lực lượng của Bắc Triều Tiên cũng không có cách nào mon men, len lỏi, trà trộn vào được.
Trước sự thất thế trong đấu tranh chính trị và võ lực ở Nam Triều Tiên, Kim Nhật Thành đã quyết định tấn công quy mô, tổng lực, toàn diện, dùng trận địa chiến rộng lớn, triệt để, nhằm thống nhất bán đảo Triều Tiên trước khi quân đội Hàn Quốc trở nên đủ mạnh và chế độ Lý Thừa Vãn trở nên vững nền. Triều Tiên muốn tấn công và chiến thắng thật nhanh trước khi các thế lực bên ngoài đổ quân vào bán đảo.
Cuộc tấn công của quân đội Triều Tiên xảy ra vào sáng sớm ngày chủ nhật 25 tháng 6 năm 1950, họ đã vượt vĩ tuyến 38 và được hậu thuẫn bởi một trận địa pháo bắn phá dữ dội vào phía trước. Được trang bị tốt với gần 15 vạn quân và 240 xe tăng bao gồm 150 xe tăng T-34 do Liên Xô chế tạo, quân đội Triều Tiên bắt đầu cuộc chiến với khoảng 180 máy bay, gồm có 40 máy bay tiêm kích YAK và 70 máy bay ném bom. Riêng hải quân của họ thì trang bị rất kém so với hải quân Mỹ gần đó. Điểm yếu trầm trọng nhất của Triều Tiên là thiếu một hệ thống tiếp vận đáng tin cậy để di chuyển đồ tiếp liệu về miền Nam khi quân đội của họ càng tiến sâu vào lãnh thổ địch. Lực lượng tự vệ của Hàn Quốc yếu hơn rất nhiều, cả về tinh thần chiến đấu lẫn khả năng tác chiến nếu đem so với quân thiện chiến Triều Tiên, do đa số lính Hàn Quốc đều là tân binh mới nhập ngũ, quân đội vừa mới được chính quyền mới xây dựng không bao lâu. Trong khi quân đội Triều Tiên là một quân đội nhà nghề đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trực diện với quân Quan Đông của Nhật, với những chiến binh từng phục vụ trong hàng ngũ Tân Tứ quân, Bát Lộ quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, tham chiến chống lại phát xít Nhật, quân Tưởng và quân phiệt, với những sĩ quan cao cấp chuyên nghiệp từng phục vụ trong Hồng quân Công - Nông của Trung Quốc và Hồng quân Liên Xô.
Quân đội Hàn Quốc có khoảng 5 vạn nhưng lúc đó chỉ gồm các vũ khí hạng nhẹ mà Mỹ đã bỏ không dùng từ sau Thế chiến 2. Quân Hàn Quốc không có xe tăng và rất thiếu xe thiết giáp và pháo binh, họ cũng không có máy bay tiêm kích và vũ khí chống tăng.
Cuộc tấn công được Kim Nhật Thành và đồng sự hoạch định tốt với khoảng 15 vạn quân tinh nhuệ và đã đạt được những thành công chớp nhoáng và bất ngờ. Triều Tiên tiến quân theo chiến lược tốc chiến tốc thắng, đánh mau đánh mạnh, với khí thế "sấm sét", đã tấn công bất thần vào một số điểm trọng yếu như Kaesong, Chuncheon, Uijeongbu và Ongjin.
Trong mấy ngày đầu giao chiến, lực lượng Hàn Quốc bị thua sút về quân số, kỹ năng chiến đấu, và vũ khí, thua vừa số lượng vừa chất lượng, quân lực Triều Tiên vừa đông hơn gấp 3 lần vừa có kỹ năng tác chiến cao hơn nhiều. Đa số quân lính Hàn Quốc là tân binh, chưa kinh qua thực chiến và thậm chí chưa được tập luyện gì nhiều trong thao trường. Các sĩ quan mới toanh còn rất trẻ thì chưa có nhiều thời gian nghiên cứu, học hành, cũng như chưa tốt nghiệp học viện quân sự nào. Lúc này Mỹ cũng đã rút quân từ năm 1950, vì không nghĩ Bắc Triều Tiên dám ngang nhiên bất chấp tất cả mà dám tấn công tổng lực vào Hàn Quốc, bất chấp Liên Hiệp Quốc.
Quân binh Hàn Quốc cũng không có chính nghĩa rõ ràng và thường mơ hồ về lòng trung thành với chính thể họ Lý, không có tâm tình chiến đấu, đào ngũ bỏ trốn, tháo chạy toàn bộ, hoặc đào ngũ hàng loạt sang phía Triều Tiên. Khi cuộc tấn công trên bộ tiếp tục, không quân Triều Tiên tiến hành oanh tạc phi trường Kimpo gần Hán Thành (Seoul). Các lực lượng Triều Tiên chiếm được thủ đô Hán Thành trưa ngày 28 tháng 6.
Tuy nhiên, niềm hy vọng của quần chúng Triều Tiên về việc chính phủ Lý Thừa Vãn đầu hàng vô điều kiện, sự giải tán quân đội bệ rạc Hàn Quốc, và sự thống nhất bán đảo, hòa bình lập lại, Triều Tiên không còn tiếng súng, không còn đổ máu tan thành mây khói khi liên quân LHQ do Mỹ cầm đầu can thiệp vào cuộc chiến.
Các lực lượng Liên Hiệp Quốc do Hoa Kỳ dẫn đầu, bao gồm 39 quốc gia tham gia, trong đó có liên quân 15 nước, với sự cung cấp nguồn nhân lực đáng kể từ Khối thịnh vượng chung Anh quốc. Tất cả các lực lượng này đều tham chiến dưới quyền tổng tư lệnh của Thống tướng Douglas MacArthur, một danh tướng lỗi lạc của Hoa Kỳ, một người rất có tài về quân sự. Đây là một cuộc "đánh hội đồng" thật sự.
Sau khi nghe báo cáo về chiến sự toàn diện nổ ra tại Triều Tiên, tổng thống Mỹ Truman ra lệnh cho tướng MacArthur chuyển vũ khí đạn dược đến cho quân đội Hàn Quốc, dùng phương tiện hàng không để di tản những công dân Hoa Kỳ. Truman phát lệnh cho không quân Hoa Kỳ ồ ạt chống lại các lực lượng Triều Tiên, đồng thời ra lệnh cho Hạm Đội 7 bảo vệ đảo Đài Loan. Với hành động đó ông đã xâm phạm vào chủ quyền mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố, càng làm họ "ngứa ngáy tay chân" muốn nhảy vào cuộc chiến.
Sự can thiệp lớn nhất và đầu tiên của quân đội Mỹ là lực lượng Đặc nhiệm Smith, một bộ phận của sư đoàn 24 Bộ binh Hoa Kỳ đóng ở Nhật Bản. Ngày 5 tháng 7, lực lượng này chiến đấu lần đầu tiên ở Osan và bị quân đội Bắc Triều Tiên đánh bại với tổn thất cao. Lực lượng chiến thắng của Bắc Triều Tiên tiến quân về phía nam, và sư đoàn 24 Mỹ với sức mạnh còn phân nửa bị buộc phải tháo chạy về Taejeon, không ngờ nơi đó đã bị Bắc Triều Tiên đánh chiếm từ trước. Tướng William F. Dean không còn cách nào khác ngoài việc buông súng đầu hàng. Ông ta bị bắt trói đem giải đến trước mặt nguyên soái Kim Nhật Thành rồi bị giam giữ.
Vào tháng 8, Quân đoàn 8 Hoa Kỳ bị quân đội CHDCND Triều Tiên đẩy lui vào một vùng nhỏ trong cạnh đông nam của bán đảo Triều Tiên quanh thành phố Pusan. Ngày 20 tháng 8, MacArthur gởi một thông điệp cảnh báo Kim Nhật Thành rằng ông ta phải chịu trách nhiệm cho các hành động chống lại Liên Hiệp Quốc (Mỹ lúc đó vẫn nấp dưới bóng cờ LHQ).
Vào tháng 9, chỉ còn thành phố Pusan (Phú Sơn) - diện tích bằng khoảng 10% bán đảo Triều Tiên – là vẫn chưa thất thủ. Với sự hỗ trợ tiếp vận lớn lao; không quân yểm trợ, và viện quân, các lực lượng của Hoa Kỳ đã giữ vững được phòng tuyến dọc theo sông Nakdong. Hành động bám giữ liều lĩnh này trở thành nổi tiếng tại Hoa Kỳ với tên gọi là “Vành đai Phú Sơn”.
Mặc dù có quân đội thiện chiến Mỹ vào trực tiếp tham chiến, tình thế vẫn trở nên nguy kịch cho chính phủ Lý Thừa Vãn, và hầu như ai cũng cho rằng Kim Nhật Thành và quân Triều Tiên sẽ thành công trong việc thống nhất bán đảo. Tuy nhiên, khả năng thống nhất Triều Tiên đã tan thành mây khói khi Mỹ quyết tâm đổ đại quân vào cuộc chiến.
Không lực Mỹ đến với số lượng lớn, thực hiện 40 phi vụ một ngày trong những hành động hỗ trợ bộ binh, nhắm vào các lực lượng Triều Tiên nhưng cũng gây ra sự tàn phá to lớn đến dân lành vô tội cũng như các công trình dân sự. Các máy bay ném bom chiến thuật (đa số là oanh tạc cơ B-29 có căn cứ ở Nhật) phá hoại lưu thông đường xá và đường xe lửa trong ban ngày, và tàn phá 32 cây cầu rất quan trọng đối với việc di tản của dân thường. Xe lửa dùng cho dân sự phải nằm chờ đợi lúc ban ngày, bên trong các đường hầm.
Khắp nơi trên Triều Tiên, các máy bay ném bom Hoa Kỳ thi nhau đánh bom các kho tiếp liệu chính và phá hủy các nhà máy lọc dầu và hải cảng nhận hàng nhập cảng như tiếp liệu quân sự để làm cạn kiệt lực lượng Triều Tiên. Không lực hải quân cũng tấn công các điểm chuyển vận. Lực lượng Triều Tiên đã bị kéo giãn ra trên toàn bán đảo, và sự tàn phá do bị các máy bay ném bom của Hoa Kỳ gây ra đã ngăn ngừa đồ tiếp liệu cần thiết tới lực lượng Triều Tiên ở phía Nam.
Trong lúc đó, các căn cứ tiếp liệu tại Nhật Bản đưa vũ khí và binh sĩ Mỹ ào ạt vào Phú Sơn. Các tiểu đoàn xe tăng Hoa Kỳ từ thành phố Cựu Kim Sơn (San Francisco) được cấp bách đưa vào Triều Tiên; vào cuối tháng tám, Hoa Kỳ có trên 500 xe tăng loại trung tại vành đai Phú Sơn. Đầu tháng chín, quân đội Mỹ được củng cố mạnh hơn và đông hơn quân Triều Tiên (Mỹ 18 vạn quân so với Triều Tiên 10 vạn quân, sau này quân số của Mỹ lên tới 48 vạn quân ở bán đảo Triều Tiên, chống nhau với 70 vạn quân Trung Quốc). Vào thời điểm đó, Mỹ bắt đầu mở cuộc tổng phản công.
Đối diện với các cuộc tăng viện áp đảo của liên quân, lực lượng Triều Tiên tự nhận thấy mình có quân số ít hơn và có hỗ trợ tiếp liệu yếu kém. Họ cũng thiếu hỗ trợ của không quân và hải quân so với Hoa Kỳ. Để giảm sức ép đối với vành đai Phú Sơn, thống soái MacArthur đã ra lệnh cho một cuộc đổ bộ từ biển vào bờ xa phía sau phòng tuyến của Triều Tiên tại Inchon, một thành phố và là hải cảng lớn ven bờ biển tây của Hàn Quốc, gần Hán Thành.
Thủy triều dữ tợn và sự hiện hữu của một lực lượng quân địch mạnh làm cho cuộc đổ bộ này trở thành một chiến dịch cực kỳ mạo hiểm, vì nếu thất bại thì coi như toàn quân tiêu diệt, tất cả các thành phần thiện chiến, tinh nhuệ, bản lãnh, dũng cảm nhất mới được chọn để thực hiện chiến dịch này. MacArthur bắt đầu hoạch định chiến dịch này vài ngày sau khi chiến tranh khởi sự nhưng Lầu Năm Góc mạnh mẽ bác bỏ kế hoạch này.
Cuối cùng khi ông được phép, MacArthur tập hợp quân đoàn 10 Hoa Kỳ dưới quyền của Tướng Edward Almond gồm có 70.000 quân từ Sư đoàn Thủy quân lục chiến 1 Hoa Kỳ và Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ và tăng phái với 8.600 quân người Hàn và ra lệnh cho họ đổ bộ tại Inchon trong chiến dịch Chromite. Vào lúc tấn công đổ bộ ngày 15 tháng 9, nhờ vào thám báo của các gián điệp Hàn Quốc, sự cố tình tạo ra thông tin sai lạc và các cuộc pháo kích kéo dài trước khi đổ bộ, thêm vào đó lực lượng Triều Tiên có rất ít quân đóng tại Inchon nên lực lượng Hoa Kỳ chỉ gặp sự chống trả yếu ớt khi họ đổ bộ lên Inchon. Cuộc đổ bộ là một chiến thắng quyết định khi quân đoàn 10 tiến công tràn ngập quân phòng thủ ít hơn và đe dọa bao vây quân đội chính quy của Triều Tiên.
MacArthur nhanh chóng chiếm được Hán Thành. Quân Triều Tiên gần như bị cắt đứt, nhanh chóng rút lui về phía Bắc; khoảng 25.000 đến 30.000 quân phải quay trở lại. Quân đội Mỹ đẩy lui quân Triều Tiên ngược qua vĩ tuyến 38.
Sau đó với lòng tham không đáy, quân lực Mỹ vượt vĩ tuyến 38 tiến quân đánh thẳng vào Bắc Triều Tiên. Sự kiện này đánh dấu khoảnh khắc quan trọng trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ khi các nhà lãnh đạo Mỹ quyết định đi xa hơn là chỉ đơn thuần "ngăn chặn cộng sản”. Các vấn đề khác gồm có tác dụng tâm lý về việc tiêu diệt được một quốc gia theo XHCN và kiểm soát khu vực Đông Bắc Á và đối trọng với Trung - Xô.
Quân đội Mỹ vượt ranh giới vào xâm lấn CHDCND Triều Tiên đầu tháng 10 năm 1950. Quân đoàn 10 Hoa Kỳ đổ bộ từ biển vào bờ tại Wonsan và Iwon. Các lực lượng còn lại của Hoa Kỳ sát cánh với quân đồng minh tiến quân phía bờ tây của Triều Tiên và xâm chiếm được Bình Nhưỡng ngày 19 tháng 10. Vào cuối tháng 10, quân đội Triều Tiên nhanh chóng tan rã, Kim Nhật Thành và bộ chính trị Đảng Lao động Triều Tiên phải thành lập chính phủ lưu vong ở Mãn Châu, Trung Quốc. Lực lượng liên quân đại thắng, tha hồ bắn giết và bắt được hơn 135.000 tù binh.
Hành động vượt vĩ tuyến 38 tấn công tổng lực vào Bắc Triều Tiên của Mỹ đã gây quan ngại lớn cho Trung Quốc. Họ lo rằng sự phiêu lưu quân sự của Mỹ sẽ không dừng lại ở sông Áp Lục, biên giới Triều Tiên - Trung Quốc, mà sẽ mở rộng chiến tranh vào lãnh thổ Trung Quốc. Nhiều người phương Tây bao gồm tướng MacArthur lúc ấy nghĩ rằng mở rộng chiến tranh vào Trung Quốc là điều cần thiết. Tuy nhiên, tổng thống Mỹ Truman và những nhà lãnh đạo Âu - Mỹ khác không đồng ý, và MacArthur được lệnh là phải hết sức cẩn trọng khi tiến tới gần biên giới Trung Hoa.
Nhưng dần dần do thực tiễn phát sinh nhiều vấn đề mới, “tướng ở sa trường không nhất thiết phải làm theo lệnh vua”, MacArthur không còn quan tâm đến lệnh của Truman nữa và cho rằng do Triều Tiên được tiếp tế qua các căn cứ bên trong Trung Hoa cho nên các căn cứ đó phải bị dội bom phá hủy.
Trung Quốc cảnh cáo Hoa Kỳ hãy dừng lại, và tuyên bố rằng nếu Mỹ tiến thêm bước nữa thì họ sẽ can thiệp quân sự để bảo vệ an ninh quốc gia. Chính phủ Mỹ xem những lời cảnh báo này chỉ là "muốn hù dọa Liên Hiệp Quốc" mà thôi và không coi trọng lắm. Ngày 15 tháng 10 năm 1950, Truman đến đảo Wake để họp ngắn ngủi với MacArthur. CIA Hoa Kỳ trước đây có cho Truman biết rằng việc CHND Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến là “không thể nào”. MacArthur cũng cho rằng rằng ít có khả năng xảy ra một cuộc chiến với Trung Hoa. MacArthur ước tính Trung Hoa có vòng quanh 30 vạn quân tại Mãn Châu với khoảng từ 10 đến 12 vạn quân dọc theo sông Áp Lục; phân nửa quân số đó có thể vượt qua sông Áp Lục. Nhưng Trung Hoa không có lực lượng không quân, vì thế "nếu Trung Quốc cố tràn xuống Bình Nhưỡng thì sẽ có một cuộc đại tàn sát đối với chúng." MacArthur đã nhận định như vậy.
Ngày 8 tháng 10 năm 1950, ngày hôm sau khi quân đội Hoa Kỳ vượt vĩ tuyến 38 xâm lược Bắc Triều Tiên và gián tiếp xâm phạm đến an ninh quốc phòng của biên giới Trung Quốc, Mao Trạch Đông phát lệnh tập kết "Chí nguyện quân Trung Hoa" (thực tế chính là quân chính quy Trung Quốc). Ông ra lệnh quân đội di chuyển đến sông Áp Lục dưới sự tổng chỉ huy của danh tướng, thống soái Bành Đức Hoài, sẵn sàng vượt sông.
Mao Trạch Đông điên tiết vì Liên Xô "xúi dại" mình giúp Bắc Triều Tiên đánh Nam Triều Tiên, để sự việc trở thành tồi tệ như thế này, "hư bột hư đường" và nhiều khả năng sẽ "mất cả chì lẫn chài", nên cồ tìm cách "ăn vạ" với Liên Xô và yêu cầu Hồng quân can thiệp vào cuộc chiến, xem đó là một hành động tự vệ cần thiết, một nghĩa vụ quốc tế cao cả của gia đình XHCN.
Mao nói với Stalin: "Nếu chúng ta để cho Hoa Kỳ chiếm đóng toàn Triều Tiên... chúng ta phải chuẩn bị chờ Hoa Kỳ tuyên chiến với Trung Hoa, các ngài cũng không yên." Sau đó thủ tướng Chu Ân Lai đích thân đến Nga để “du thuyết” và giúp tăng thêm cường độ cho những lý lẽ qua điện thoại và thơ từ của Mao Trạch Đông. Trung Quốc trì hoãn các chiến dịch quân sự trong lúc chờ đợi sự tăng viện lớn từ Liên Xô, hủy bỏ những cuộc tấn công đã lên kế hoạch từ 13 tháng 10 đến 19 tháng 10.
Tuy nhiên, sự giúp đỡ của Liên Xô chỉ giới hạn cung cấp yểm trợ bằng không quân không quá 60 dặm Anh (100 km) từ mặt trận. Nhưng các phi cơ Mig-15 hiện đại của Nga là một sự thách thức nghiêm trọng đối với quân lực Hoa Kỳ. Tại một khu vực có biệt danh là "Hành lang Mig", các phi cơ của Nga giữ ưu thế trên không phận địa phương hơn đối thủ với các phi cơ F-80 do Hoa Kỳ chế tạo như Lockheed F-80 Shooting Stars cho đến khi các phi cơ F-86 (North American F-86 Sabre) được khai triển.
Người Trung Hoa rất giận dữ trước việc giúp đỡ dè dặt, thiếu nhiệt tình của Liên Xô vì họ cứ đinh ninh rằng họ đã được hứa cung ứng yểm trợ không lực toàn diện. Hoa Kỳ biết rõ vai trò của Liên Xô nhưng vẫn giữ im lặng để tránh leo thang chiến tranh.
Quân đội Trung Hoa đối mặt với quân đội Hoa Kỳ ngày 25 tháng 10 năm 1950, ban đầu với 27 vạn quân (sau này trong thời điểm cao nhất là 70 vạn quân, tổng số quân Tàu tham chiến ở Bắc Triều Tiên là gần 100 vạn quân, con số kỷ lục) dưới quyền tổng tư lệnh của danh tướng Bành Đức Hoài khiến cho Mỹ bị bất ngờ vì không lường trước được Trung Hoa có thể huy động mức độ quân số đông đảo đến như vậy ngay từ đầu, trái với mọi dự tính của danh tướng MacArthur. MacArthur chỉ tính đến những đơn vị Trung Hoa ở gần biên giới Triều Tiên, ông ta không ngờ nguyên soái Bành Đức Hoài lại tập trung đại quân một cách bí mật và siêu tốc đến vậy, không ngờ khả năng bảo mật thông tin lạc hậu của Trung Quốc lại hiệu quả đến thế. Trong cuộc đấu trí quân sự ngoạn mục giữa hai đại danh tướng, MacArthur đã thua Bành Đức Hoài ván này, sau khi đã chiến thắng Kim Nhật Thành trong "hiệp 1".
Tuy nhiên, quân đội chuyên nghiệp Hoa Kỳ, vốn từng vào sinh ra tử trên khắp chiến trường thế giới trong Thế chiến 2 chống phát xít, với vũ khí cá nhân tối tân, binh sĩ thao luyện kỹ, kỹ năng chiến đấu cá nhân cao và khả năng tác chiến tập thể tốt, vũ khí chiến lược và chiến thuật hiện đại, nên sau bất ngờ ban đầu họ đã lập tức trở về trạng thái bình thường và nhanh chóng lấy lại ưu thế.
Sau những vụ đụng độ sau đó, Bành Đức Hoài thấy quân mình lép vế, hao tổn nhiều sinh lực và thất bại trong những trận giáp chiến xáp lá cà khi những quân lính người Hoa nhỏ con, gầy ốm, xanh xao, thiếu ăn phải đánh xáp lá cà trong một phạm vi hẹp với những chiến binh người Mỹ đô con, to cao, lực lưỡng, được luyện tập võ thuật chu đáo, và với các vũ khí cá nhân tốt, nên đã quyết định rút lui vào trong vùng rừng núi.
Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc lại xem sự rút lui của này như là một dấu hiệu yếu thế và đánh giá sai lầm trầm trọng khả năng tác chiến của Giải phóng quân Trung Quốc. Thế nên các lực lượng Hoa Kỳ tiếp tục tiến công về sông Áp Lục không đếm xỉa gì đến những lời cảnh cáo của Trung Hoa.
Tình báo Hoa Kỳ sơ sài trong suốt giai đoạn này vì nhiều lý do, đã hoạt động không hiệu quả tại Bắc phần Triều Tiên cũng như đã từng không hữu hiệu tại Nam phần Triều Tiên trong những ngày có cuộc bao vây tại Vành đai Pusan.
Lính Trung Quốc hành quân bằng cách đi bộ và ngủ trong rừng nên giảm thiểu tối đa sự phát hiện của đối phương. Trong một trường hợp có ghi chép kỹ càng, một quân đoàn của TQ gồm có ba sư đoàn hành quân bằng chân đất từ An Tung ở Mãn Châu, phía Bắc cách sông Áp Lục khoảng 286 dặm (460 km) đến nơi tập kết tại Triều Tiên trong khoảng một thời gian dài từ 16 đến 19 ngày. Một sư đoàn của quân đoàn này hành quân vào ban đêm trên những con đường núi ngoằn ngoèo, trung bình đi được 18 dặm (29 km) một ngày trong vòng 18 ngày.
Cuộc hành quân trong ngày bắt đầu từ sau khi chập tối lúc 19 giờ và kết thúc lúc 3 giờ sáng hôm sau. Những phương án trú ẩn chống phi cơ phải hoàn thành trước 5 giờ 30 sáng. Tất cả mọi người, thú vật và các trang bị được giấu đi hay ngụy trang. Trong ban ngày chỉ có các nhóm trinh sát được ngụy trang di chuyển về phía trước để chọn lựa khu đóng quân ngoài trời của ngày hôm sau. Khi các đơn vị của Trung Hoa bắt buộc phải hành quân vào ban ngày vì bất cứ lý do gì, họ luôn tuân thủ lệnh dừng lại ngay tại chỗ và không cử động khi có phi cơ xuất hiện trên đầu. Các sĩ quan có quyền bắn bỏ bất cứ binh sĩ nào vi phạm lệnh này.
(Bản đồ trận Hồ nước Chosin)
Cuối tháng 11, quân Trung Hoa đánh vào phía Tây, dọc theo sông Chongchon, và hoàn toàn tràn ngập một số sư đoàn Hoa Kỳ và thành công gây một đòn chí tử vào sườn các lực lượng còn lại của các lực lượng đồng minh. Sự bại trận của Quân đoàn 8 Hoa Kỳ tạo nên một cuộc rút lui dài nhất của một đơn vị quân sự Hoa Kỳ trong lịch sử.
Tại miền Đông, trong trận Hồ nước Chosin, một đơn vị 3 vạn người của Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ cũng chưa chuẩn bị kịp cho những cuộc tấn công chiến thuật của quân đội Trung Quốc, chẳng bao lâu Mỹ bị bao vây, mặc dù cuối cùng họ phá được vòng vây nhưng bị thương tổn khoảng 15.000 quân. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ vốn rất thiện chiến đã bị đánh tan tác tại trận này và phải rút lui, tuy nhiên họ cũng đã gây thiệt hại nặng nề cho 6 sư đoàn CHND Trung Hoa.
Trong khi các binh sĩ Trung Hoa ban đầu thiếu yểm trợ của hỏa lực nặng và vũ khí bộ binh hạng nhẹ, chiến thuật của họ nhanh chóng điều chỉnh thích hợp cho sự bất lợi này như Bevin Alexander có giải thích trong cuốn sách của ông có tựa đề là "How Wars Are Won" (Cách thế nào để thắng các cuộc chiến tranh) :
Phương cách thông thường là xâm nhập các đơn vị nhỏ của địch từ một trung đội 50 người đến một đại đội 200 người, bằng cách phân tán thành nhiều nhóm riêng lẻ. Trong lúc một đội cắt đường rút lui của người Mỹ, các đội khác đánh thẳng cả mặt trước và hai bên sườn trong các cuộc tiến công phối hợp nhịp nhàng. Các cuộc tiến công tiếp tục vào các phía cho đến khi những người phòng thủ bị tiêu diệt hoặc bắt buộc phải rút lui. Người Trung Hoa bò lên phía trước đến sườn mở nơi đóng chốt của trung đội kế tiếp và lập lại chiến thuật này.
Roy Appleman làm sáng tỏ hơn các chiến thuật ban đầu của Trung Hoa như sau:
Trong giai đoạn đầu tiến công, các lực lượng bộ binh thiện chiến nhẹ đã thực hiện các cuộc tấn công của Trung Hoa, nói chung không được yểm trợ với bất kỳ loại vũ khí hạng nặng nào ngoài súng cối (mortars). Các cuộc tấn công đã chứng minh rằng binh sĩ Trung Hoa là những chiến binh có kỷ luật và được huấn luyện kỹ lưỡng, và đặc biệt lão luyện trong chiến đấu về đêm. Họ có tài về nghệ thuật ngụy trang. Các đội trinh sát rất thành công đáng kể trong việc phát hiện các vị trí của các lực lượng Liên Hiệp Quốc. Họ hoạch định các cuộc tấn công vào phía sau lưng của các lực lượng này, cắt đường rút lui và đường tiếp vận của quân địch, và rồi sau đó xung trận đánh vào mặt trước và bên sườn để kết thúc trận chiến. Họ cũng áp dụng một chiến thuật gọi là Hachi Shiki tạo thành một đội hình chữ V mà họ để cho quân địch di chuyển trong đó; hai cạnh của chữ V sau đó được khép lại quanh quân địch trong khi đó một lực lượng khác di chuyển phía dưới miệng chữ V để đón chặn bất cứ lực lượng nào cố giải vây cho đơn vị bị bao vây. Các chiến thuật như thế của Trung Quốc đã được sử dụng với những thành công to lớn tại Onjong, Unsan, và Ch'osan, nhưng chỉ thành công một phần tại Pakch'on và Ch'ongch'on.
Lực lượng Hoa Kỳ tại vùng Đông Bắc Triều Tiên, từng tiến công chớp nhoáng chỉ một vài tháng trước đây, bị bắt buộc phải nhanh chân hơn nữa rút về miền Nam để hình thành một vành đai phòng thủ quanh thành phố hải cảng Hungnam nơi mà sau đó một cuộc di tản lớn được thực hiện cuối tháng 12 năm 1950.193 lượt tàu chở các quân nhân Mỹ và trang thiết bị đã rời bến di tản khỏi Bến cảng Hungnam. Khoảng 10 vạn binh sĩ, 17.500 xe các loại, và 350.000 tấn tiếp liệu được tàu chở đến Pusan trong vòng trật tự. Khi họ đã bỏ đi, các lực lượng Mỹ đã thiêu hủy, san bằng thành phố, và phá hủy tất cả không cho quân đội Trung Quốc sử dụng. Hành động tàn bạo này đã khiến nhiều dân lành trở thành vô gia cư và không có nơi trú thân trong mùa đông, làm nhiều thường dân phải chết cóng.
Tháng giêng năm 1951, Bành nguyên soái lại đánh mạnh trong giai đoạn tiến công thứ ba (được biết với tên gọi Cuộc Tổng tấn công mùa đông). Quân Trung Hoa sử dụng lại các chiến thuật trước đây của họ là tấn công chủ yếu vào ban đêm với cách đánh thăm dò từ các vị trí xa mặt trận theo sau là một đợt xung phong với số lượng quân áp đảo, và dùng kèn, cồng chiêng để liên lạc và đánh lạc hướng quân địch. Kết hợp giữa chiến thuật biển người, tiền pháo hậu xung, nghi binh, đánh úp, đánh trộm, và quấy rối thường xuyên, tập kích trong khi lực lượng Liên Hiệp Quốc đang ngủ ban đêm, dùng loa la ó hò hét tuyên truyền và kêu gọi đầu hàng, quấy rối không cho các lực lượng LHQ ngủ, nghỉ. Mặc dù không thành công trong các mưu kế dụ địch vào địa điểm phục binh, nhưng các chiến thuật tác chiến khác của Bành Đức Hoài đã phát huy hiệu quả rất tốt. Quân đội Mỹ không có thuốc trị cho những chiến thuật này, và sức kháng cự của họ sa sút nên họ rút lui nhanh về miền Nam. Thủ đô Hán Thành bị bỏ lại và bị đại binh Trung Quốc chiếm đóng vào ngày 4 tháng 1 năm 1951.
Khó khăn thêm gia tăng cho Quân đoàn 8 Hoa Kỳ khi tướng Walker bị tử trận. Trung tướng Matthew Ridgway, một người hùng và là một cựu chiến binh nhảy dù trong Thế chiến 2 lên thay thế và nhanh chóng từng bước nâng sĩ khí và tinh thần chiến đấu của Quân đoàn 8 vốn đang kiệt quệ và sa sút trong cuộc rút lui chiến thuật. Tuy nhiên tình thế quá bi quan đến nỗi tướng Douglas MacArthur kêu gào hăm dọa sử dụng vũ khí hạt nhân chống Bình Nhưỡng và Bắc Kinh, dọa sẽ biến Mãn Châu thành tro bụi, những lời đe dọa này của tướng MacArthur gây nhiều báo động cho quốc tế. Liên Xô và Trung Quốc lập tức bám vào những lời tuyên bố kém chính trị của MacArthur, nhắc lại việc Mỹ dội bom nguyên tử xuống Nhật và dọa sẽ đưa Mỹ ra tòa án quốc tế vì tội ác chiến tranh diệt chủng và tội ác chống loài người, và dọa họ nhất địnhh sẽ làm vậy nếu Mỹ còn dám có ý nghĩ về việc dùng vũ khí hạt nhân. Sau này những người lãnh đạo Hoa Kỳ bào chữa rằng đó chỉ là chiến tranh tâm lý chứ MacArthur không có ý định sử dụng bom hạt nhân, và đó chỉ là ý kiến riêng của cá nhân MacArthur chứ không phải là quan điểm chung của chính phủ chúng tôi.
Quân đội Mỹ tiếp tục tháo lui cho đến khi họ tới phòng tuyến chạy dài từ phía Nam Suwon ở miền Tây, Wonju ở giữa, và phía Bắc Samchok ở miền Đông là nơi mặt trận được ổn định. Quân Trung Hoa đã bỏ xa đường tiếp vận của họ và bắt buộc phải lùi lại. Quân Trung Hoa gặp khó khăn khi tiến ra xa khỏi Hán Thành vì họ đang ở cuối đường vận chuyển tiếp liệu, tất cả lương thực và đạn dược phải được vận chuyển vào ban đêm bằng chân hoặc xe đạp từ sông Áp Lục.
Cuối tháng giêng, sau khi nhận thấy các phòng tuyến phía trước lực lượng Hoa Kỳ bị bỏ hoang, tướng Ridgway ra lệnh tiến hành thám thính mà sau đó biến thành một cuộc tiến công toàn diện có tên gọi là "Operation Roundup" (Chiến dịch Bố ráp). Chiến dịch được hoạch định tiến hành từng bước một, lợi dụng ưu thế hỏa lực trên mặt đất và nhất là trên không của Mỹ. Vào lúc kết thúc Chiến dịch Bố ráp vào đầu tháng hai, quân Mỹ đã tiến tới sông Hán và tái chiếm Wonju.
Trung Quốc phản công vào giữa tháng hai bằng cuộc tiến công giai đoạn 4 từ Hoengsong ở miền Trung chống các vị trí của Quân đoàn 9 Hoa Kỳ quanh Chipyong-ni. Các đơn vị của sư đoàn 2 Bộ binh Hoa Kỳ, gồm có tiểu đoàn Pháp tại Triều Tiên đã đánh trả một cuộc bao vây ngắn ngủi nhưng dữ dội và cuối cùng phá vỡ cuộc tiến công này. Trong trận đánh này, Mỹ và đồng minh đã học được cách đối phó với các chiến thuật tấn công của Trung Quốc và có thể giữ vững trận địa, do đó họ đã chống trả rất dũng cảm.
Chiến dịch Bố ráp được theo sau trong hai tuần cuối của tháng hai năm 1951 bằng Chiến dịch Sát thủ (Operation Killer) do Quân đoàn 8 của Hoa Kỳ đảm nhiệm, họ chiến đấu rất hung hãn. Đây là một cuộc tiến công toàn diện ngang qua mặt trận, lần nữa được hoạch định tăng cường tối đa hỏa lực với mục đích gây thiệt hại nặng nề cho các quân đoàn Triều Tiên và Trung Hoa. Vào cuối Chiến dịch Sát thủ, Quân đoàn 1 Hoa Kỳ đã tái chiếm lại được tất cả các lãnh thổ phía Nam sông Hán, trong khi Quân đoàn 9 tái chiếm Hoengsong, đánh bại Bành Đức Hoài và quân Trung Quốc.
Ngày 7 tháng 3 năm 1951, Quân đoàn 8 Hoa Kỳ lại thọc mạnh về phía trước trong Chiến dịch Ripper, và vào ngày 14 tháng 3 họ đã đẩy lui quân đội Trung Hoa ra khỏi thủ đô Hán Thành (Seoul), đây là lần thứ tư trong một năm thành phố này đổi chủ. Hán Thành ở trong cảnh hoang tàn đổ nát; dân số của thành phố trước chiến tranh là 1,5 triệu người đã giảm xuống còn 200.000 người và thiếu thực phẩm trầm trọng.
Sau khi đánh bại quân Trung Hoa chiếm lại Hán Thành, gây tổn thương nặng nề cho Trung Quốc, Douglas MacArthur trở nên kiêu căng, ngạo mạn, lớn lối, cực đoan hơn, phát biểu thêm nhiều lộng ngôn kém chính trị, gây hại cho hình ảnh nước Mỹ và chính phủ, sự khác biệt, bất đồng, mâu thuẫn, bất mãn với chính quyền trung ương Mỹ và tổng thống Truman ngày càng sâu, không muốn nghe lệnh chính phủ trung ương mà chỉ muốn độc đoán tự quyết định, có dấu hiệu lộng quyền, trở thành một vị tướng bất trị, một con ngựa bất kham, nên đã bị tước quyền tư lệnh bởi Truman ngày 11 tháng 4 năm 1951 vì tội “bất tuân thượng lệnh”.
Quyết định bất ngờ và khó hiểu này của tổng thống Mỹ ngay trong lúc quân Mỹ đang trên đà chiến thắng đã gây tranh cãi rất nhiều và gây ra một làn sóng phản đối và mâu thuẫn nội bộ trong chính quyền và giới chức quân sự Hoa Kỳ. Cuộc đụng độ lịch sử giữa 2 vị tướng lừng danh đã trở thành một quả đắng cho tướng MacArthur. Trong cuộc thi thố tài năng quân sự, đọ trí đấu mưu, Bành Đức Hoài đã thắng MacArthur. Sau khi MacArthur bị tước quyền hành và bắt phải về nước, Bành Đức Hoài vui mừng ra mặt, nói với các đồng chí của ông đại ý: Truman ngốc thật, Nhạc Phi đã bị hoàng đế triệu về, để xem cách nào chúng nó thắng chúng ta được đây.
Nhưng Bành Đức Hoài đã vui mừng quá sớm, sau khi loại được MacArthur, Bành và giới quân sự Trung Quốc trở nên chủ quan. Họ không biết Tư lệnh tối cao mới, tướng Ridgway cũng là một tường có nhiều quân công, chiến tích trong Thế chiến 2 chống phe Trục, biết cách động viên và thu phục lòng trung thành, cống hiến của quân đội, được nhiều chuyên gia Hoa Kỳ xem là một nhà quân sự có tài ngầm (underate), thực tài có lẽ không thua kém MacArthur bao nhiêu. Ông ta tiến hành củng cố quân đội Mỹ và các đàn em để chuẩn bị cho một loạt các cuộc phản công hiệu quả. Tư lệnh Quân đoàn 8 được chuyển qua cho tướng James Van Fleet thống lãnh.
Một loạt các cuộc tấn công sau đó từ từ đẩy lui quân đội Trung Quốc như các chiến dịch Courageous và Tomahawk, một cuộc công kích kết hợp giữa lục quân và không quân đã vây hãm quân đội CHND Trung Hoa giữa Kaesong và Seoul. Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục thừa thắng xông lên cho đến khi họ tới được phòng tuyến Kansas, cách vĩ tuyến 38 một khoảng mấy dặm về phía Bắc.
Tuy nhiên quân đội Bành Đức Hoài khó thể bị đánh bại. Tháng tư năm 1951 họ mở đợt tiến công giai đoạn năm. Đây là một nỗ lực chính có sự tham dự của 3 quân đoàn, tổng cộng lên đến 70 vạn quân. Quả đấm thôi sơn giáng thẳng vào Quân đoàn 1 Hoa Kỳ nhưng sự chống trả dũng mãnh trong các trận đánh tại sông Imjin và Kapyong đã làm chậm lại tiến trình, quân Tàu bị chặn đứng ở phòng tuyến phía Bắc Seoul.
Một cuộc tiến công của Trung Quốc sau đó ở Trung phần Triều Tiên, chống Quân đoàn 10 Hoa Kỳ và lực lượng Liên Hiệp Quốc vào ngày 15 tháng 5 cũng đạt được những thành công ban đầu, nhưng vào 20 tháng 5 cuộc tấn công phải ngừng lại. Quân đoàn 8 Hoa Kỳ phản công mạnh và đến cuối tháng 5 thì chiếm lại phòng tuyến Kansas. Liên Hiệp Quốc, Mỹ và đồng minh quyết định dừng lại ở phòng tuyến Kansas, nằm ở phía Bắc vĩ tuyến 38.
(Lãnh thổ đổi chủ trong phần đầu của cuộc chiến cho đến khi mặt trận được ổn định)
Phần còn lại của cuộc chiến bao gồm chút ít sự thay đổi về lãnh thổ, các cuộc oanh tạc tầm mức rộng lớn vào lãnh thổ CHDCND Triều Tiên và dân cư của họ, và các cuộc thương thuyết hòa bình kéo dài bắt đầu từ 10 tháng 7 năm 1951 tại Kaesong giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Thậm chí trong suốt các cuộc thương thuyết hòa bình, chiến sự vẫn tiếp tục, hai bên vẫn "vừa đánh vừa đàm".
Mao Trạch Đông cố mở các chiến dịch quân sự nhằm thử quyết tâm của Truman xem có dám tiếp tục cuộc chiến. Các cuộc đụng độ quân sự chính yếu trong giai đoạn này là những hành động quanh lòng chảo phía đông như Bloody Ridge và Heartbreak Ridge năm 1951, các trận đánh như Trận Old Baldy ở giữa và Trận Hook ở phía Tây trong suốt năm 1952–53, Trận Đồi Eerie năm 1952, và Trận Đồi Pork Chop năm 1953.
Tháng 10 năm 1951, Hoa Kỳ tiến hành chiến dịch Cảng Hudson với ý định thiết lập khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Một số phi cơ B-29 thực hiện các phi vụ tập ném bom giả từ Okinawa đến Triều Tiên mang theo các quả bom hạt nhân "hình nộm" hoặc các loại bom thông thường hạng nặng. Chiến dịch được điều hợp từ Căn cứ Không quân Yokota tại Nhật Bản. Cuộc tập trận này có ý định thử chức năng thật sự của tất cả các hoạt động sẽ cần dùng trong một tấn công bằng vũ khí hạt nhân, bao gồm việc lắp ráp vũ khí và thử nghiệm, hướng dẫn, kiểm soát mặt đất về mục tiêu ném bom. Kết quả cho thấy bom hạt nhân không hiệu quả như là tiên đoán bởi vì việc phát hiện số đông lực lượng địch kịp thời thì quả là hiếm hoi. Việc này đã làm cho dư luận thế giới lên án Mỹ. Sau này các sử gia vẫn tranh cãi liệu đây là ý định thật của Mỹ hay chỉ là trò chơi tâm lý chiến để răn đe Trung Quốc, Liên Xô, và khối cộng sản.
Trong cuốn "The Origins of the Korean War" xuất bản vào các năm 1981, 1990, sử gia người Mỹ Bruce Cummings cho biết rằng trong một cuộc họp báo ngày 30 tháng 11 năm 1950, những lời ám chỉ tấn công bằng vũ khí hạt nhân của Tổng thống Truman là lời đe dọa dựa trên kế hoạch bất ngờ sử dụng bom hạt nhân, chớ không phải lỡ lời như nhiều người lầm tưởng. Ngày 30 tháng 11 năm 1950, Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược của Không quân Hoa Kỳ được lệnh gia tăng khả năng của mình, và sự gia tăng này gồm có khả năng nguyên tử.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 1952, tổng thống mới đắc cử là Dwight D. Eisenhower đã thực hiện lời hứa lúc tranh cử là đến Triều Tiên để tìm ra giải pháp để kết thúc cuộc chiến trong danh dự. Với việc chấp thuận lời đề nghị ngưng bắn của Ấn Độ, một cuộc ngưng bắn được thiết lập vào ngày 27 tháng 7 năm 1953 vào thời điểm tuyến đầu mặt trận quay trở lại quanh vĩ tuyến 38, và vì vậy một vùng phi quân sự được thiết lập quanh đó, được quân đội Trung Quốc phòng thủ một phía và phía bên kia là quân đội Hoa Kỳ.
Nơi có các cuộc thương thảo hòa bình, Kaesong, cố đô của Triều Tiên, là phần đất của Hàn Quốc trước khi chiến sự bùng nổ nhưng nay là một thành phố đặc khu của CHDCND Triều Tiên. Nhiều lãnh thổ khác trước chiến tranh thuộc Bắc Triều Tiên, sau chiến tranh lại thuộc Nam Triều Tiên. Cho đến ngày nay vẫn không có một hiệp ước hòa bình nào được ký kết, về mặt kỹ thuật và pháp lý, Đại Hàn Dân Quốc và CHDCND Triều Tiên vẫn còn đang trong tình trạng chiến tranh, mặc dù hai bên đã ký kết Hiệp ước Đình chiến.
Tội ác của Mỹ - Hàn đối với thường dân hai miền Triều Tiên
Theo nhiều người Mỹ, phương Tây, và Hàn Quốc thừa nhận, Hoa Kỳ và Hàn Quốc đã hành quyết tập thể hàng chục ngàn tù nhân cánh tả và những người thân cộng trong những sự kiện như vụ tàn sát tập thể tù nhân chính trị của nhà tù Daejeon và cuộc thảm sát tập thể đẫm máu trong vụ “Nổi dậy Cheju”. Gregory Henderson, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ tại Triều Tiên vào thời điểm đó, đưa ra con số tổng cộng là trên 100.000 nạn nhân, và xác chết của họ bị quăng vào các hố chôn tập thể. Gần đây, Ủy ban Hòa giải và Tìm sự thật, một hội đoàn phi chính phủ và hoạt động độc lập của những người yêu nước ở Hàn Quốc đã nhận được các báo cáo của hơn 7,800 vụ tàn sát dân sự trong 150 địa điểm khắp bán đảo do quân đội Mỹ gây ra. Và những nơi các vụ tàn sát dân sự tập thể xảy ra trước, trong, và sau cuộc chiến. Trong nhiều trường hợp khác, quân đội Hàn Quốc cũng đã cho phá hủy một số cây cầu có đông nghẹt các thường dân đang bỏ chạy, giết chết tất cả người trên cầu.
Trên đường thua chạy, Lý Thừa Vãn do thiếu quân đã tiến hành bắt lính, sung quân cấp tốc và bắt buộc tất cả người dân chung quanh nhập ngũ ngay để bổ sung. Có lúc quân đội Mỹ được lệnh xem bất cứ thường dân Triều Tiên nào hiện diện gần mặt trận là thù địch, và được lệnh "vô hiệu hóa" (giết) họ ngay lập tức. Việc này đưa đến nhiều vụ thảm sát giết chóc bừa bãi hàng ngàn dân thường Nam Triều Tiên bởi quân lính Hoa Kỳ, tại nhiều nơi, quân đội Mỹ - Hàn đem việc bắn giết thôn dân làm trò tiêu khiển, mà đỉnh cao là cuộc Thảm sát tắm máu No Gun Ri trong đó nhiều người không có khả năng tự vệ - đa số là phụ nữ, trẻ con và người già - nhiều người đàn bà và bé gái đã bị quân đội Mỹ hãm hiếp tập thể và sau đó giết chết. Nhiều thôn khác cũng thường xuyên bị không quân Hoa Kỳ dội bom lên đầu. Gần đây, (năm 2007, 2008) Hoa Kỳ đã thừa nhận là có chính sách “ngăn chặn” thường dân tại một số nơi ở mặt trận ở một số thời điểm.
Miền Bắc Triều Tiên bị tàn phá nặng nề bởi bom Mỹ, chỉ vài căn nhà còn đứng vững. Hơn 3,5 triệu người Triều Tiên bị chết trong cuộc tiến công của Mỹ, và một danh sách dài các tội ác chiến tranh của quân đội Mỹ đã được ghi nhận bao gồm cả việc sử dụng vũ khí sinh học, vũ khí hủy diệt hàng loạt và những cuộc tàn sát cư dân địa phương. Theo chuyên gia Michel Chossudovsky thuộc cơ quan Global Research, gần 30% dân số Bắc Triều Tiên đã chết dưới những đợt dội bom của Mỹ trong thập niên 1950.
Ngoài ra chính phủ các bên cũng tố cáo, cáo buộc, quy kết lẫn nhau về nhiều tội ác chiến tranh khác, tuy nhiên không có những bằng chứng rõ ràng. Hoa Kỳ cho rằng đã có một vụ thảm sát tại đồi 303, khi 41 tù binh của họ đã quân Kim Nhật Thành bắt giữ và xả súng máy thảm sát trong tư thế vẫn bị trói tay sau lưng trong trận Vành đai Phú Sơn.
Một bộ phận người dân Hán Thành vốn là ủng hộ viên, cảm tình viên, thiên cộng, hoặc chống Lý Thừa Vãn đã chạy theo quân đội Triều Tiên (vốn đang trên đường thua chạy) về miền Bắc (điều bất ngờ ngoài dự tính này đã làm cho cuộc rút lui đang có kỷ luật trở thành vô trật tự và ì ạch, chậm chạp vì phải lo cho dân). Tuy nhiên, Hàn Quốc và Hoa Kỳ lại gọi đây là sự cưỡng bức di cư, và xem đó là một trong những "tội ác chiến tranh" của Triều Tiên.
Nhà thổ phục vụ lính Mỹ
Trong những năm 1950, kể từ khi Mỹ đóng quân ở Nam Triều Tiên đồng thời chủ động Bắc tiến cưỡng chiếm và xâm lược Bắc Triều Tiên, chính quyền thân Mỹ ở Hàn Quốc xem quân đội Mỹ như một cơ hội thu lợi về kinh tế mặc dù món lợi này được trả giá bằng hàng chục ngàn phụ nữ. Khi quân đội Mỹ tới Hàn Quốc cũng là lúc các tấm biển chỉ đường mọc lên, chỉ dẫn tới các thị trấn Hàn Quốc hay còn gọi là các địa điểm "nghỉ ngơi và giải trí" (R&R). Những nơi này nằm gần các trại lính lớn ở Hàn Quốc phục vụ cho "nhu cầu tiêu dùng" của binh lính Mỹ. ’’Nhu cầu tiêu dùng’’ này chính là tình dục của lính Mỹ.
Những thị trấn đồi trụy này không phải do tư nhân xây dựng để "làm ăn", kiếm lợi, mà do chính các chế độ cầm quyền ở Hàn Quốc đã thiết lập để vừa phục vụ lính Mỹ vừa sinh lợi cho nền kinh tế. Chính phủ Lý Thừa Vãn phát đăng ký cho tất cả gái điếm quân đội và thẻ đăng ký giúp họ ra vào những điểm R&R này. Giấy thông hành duy nhất mà một nam giới cần là một bộ quân phục Mỹ.
Vào cuối thập niên 1950, chính phủ Mỹ và chính phủ Hàn Quốc ký với nhau 2 hiệp nghị bất bình đẳng. Một là Hiệp ước phòng thủ chung, hiệp định này chính danh hóa sự có mặt của thực binh Mỹ ở Nam Triều Tiên, chính thức cho phép quân đội Mỹ đóng ở Hàn Quốc vô thời hạn. Hiệp ước cũng quy định các địa điểm R&R (phục vụ tình dục) sẽ được "cống nạp" cho lính Mỹ. Vào năm 1988, lính Mỹ vẫn còn sử dụng các thị trấn Hàn Quốc này. Ngoài ra, các con số thống kế cho thấy có hơn 18.000 gái mại dâm Hàn phục vụ gần 5 vạn lính Mỹ đóng tại Hàn Quốc. Một số chuyên gia nói rằng ở đâu có lính Mỹ, ở đó sẽ có các nhà thổ do các chính phủ bản xứ tài trợ và ủng hộ.
Hai là hiệp nghị Status of Forces Agreement, theo thỏa thuận này, tòa án Hàn Quốc không có quyền xử binh lính Mỹ đang đóng quân và làm nhiệm vụ trên lãnh thổ Hàn Quốc, chỉ có tòa án binh Mỹ mới có quyền xử binh lính Mỹ.
Những hiệp định bất bình đẳng cho phép một nước ngoài đóng quân vĩnh viễn và "dâng gái", "mỹ nhân kế" này mãi mãi đi vào lịch sử bán đảo Triều Tiên nói chung và lịch sử Đại Hàn Dân Quốc nói riêng như là một vết nhơ. Không phải ngẫu nhiên mà xưa nay thường xuyên có những tụ họp biểu tình bày tỏ sự bất mãn với Mỹ của người dân Hàn.
Bán đảo Triều Tiên sau chiến tranh
Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến tranh quy mô đầu tiên trong thời kỳ Chiến tranh lạnh và đã gây thiệt hại nặng nề cho cả bán đảo Triều Tiên và các lực lượng Liên Hiệp Quốc.
Mặc dù Hàn Quốc trì trệ về kinh tế trong những thập niên sau chiến tranh, nhưng nhờ Mỹ tích cực đổ tiền vào viện trợ, đầu tư, giúp đỡ, Hàn Quốc sau đó đã được Mỹ và phương Tây giúp vực dậy nền kinh tế và hỗ trợ cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Kinh tế Triều Tiên thì cũng đã hồi phục và phát triển nhanh chóng sau chiến tranh và cho đến khoảng năm 1975 đã vượt qua nền kinh tế của Hàn Quốc. Tuy nhiên, nền kinh tế của Triều Tiên tăng trưởng chậm dần. Ngày nay, do đòn thù cấm vận của Mỹ và phương Tây, chính sách đóng cửa, tự cô lập với thế giới bên ngoài, tự cung tự cấp, tự lực cánh sinh, bế quan tỏa cảng và nhiều sai lầm về chính sách, về thực hành, về công tác lãnh đạo, về mô hình thể chế, cơ chế chính trị, các thiết chế xã hội v.v. cộng với thiên tai bão lụt, hạn hán mất mùa v.v. cho nên nền kinh tế Triều Tiên đã sa sút, lương thực thiếu thốn, và hàng năm phải nhận viện trợ từ Trung Quốc và cả Hàn - Mỹ để cứu đói trong khi nền kinh tế Hàn Quốc đã phát triển ưu việt.
Sau chiến tranh, Kim Nhật Thành bắt tay vào việc kiến thiết đất nước vốn đã bị quân đội Mỹ tàn phá nặng nề. Ông thực hiện kế hoạch “Kinh tế quốc gia 5 năm”, tạo nên một nền kinh tế tập trung, với tất cả ngành công nghiệp đều là công hữu và tất cả nền công nghiệp được tập thể hóa. Đất nước hình thành dựa trên nguyên lý chủ nghĩa quân bình và nền kinh tế dựa trên nhu cầu của công nhân và đội ngũ trí thức. Kinh tế tập trung vào công nghiệp nặng và sản xuất vũ khí. Cả hai bên Bắc - Nam đều duy trì một lực lượng vũ trang đông đảo để bảo vệ đường ngừng bắn năm 1953.
Giữa thập niên 1960, chủ tịch Kim Nhật Thành đã có những nỗ lực xâm nhập Nam Triều Tiên để chống Hàn Quốc. Những nỗ lực đó lên đến cực điểm khi Kim Nhật Thành cho các lực lượng sát thủ đặc biệt tấn công Nhà Xanh và ám sát tổng thống độc tài Phác Chính Hy, nhưng nhiệm vụ thất bại, không giết được Phác Chính Hy mà còn ngộ sát vợ ông ta. Quân đội Triều Tiên có thái độ ngày càng quyết liệt đối với Hàn Quốc và quân đội Hoa Kỳ đồn trú ở gần giới tuyến quân sự, lôi kéo quân đội Mỹ vào những cuộc đấu súng quyết liệt dọc theo vùng phi quân sự. Vụ bắt giữ thủy thủ của tàu do thám USS Pueblo là một phần của nỗ lực này.
Theo sách "Phật giáo Đại Hàn, trước những thử thách lịch sử" của tác giả Trần Quang Thuận, do Tu viện Quảng Đức xuất bản năm 2004 ở Hoa Kỳ, chương 10, thì từ năm 1953 sau hiệp định đình chiến cho đến năm 1969, thì Bắc Triều Tiên đã gây ra 6.814 biến cố tại Nam Triều Tiên. Từ năm 1970 đến 1977, 32.775 vụ. Từ 1970 đến 1977, 32.775 vụ. Bình Nhưỡng cho đào hầm xuyên qua ranh giới Bắc - Nam để đột nhập vào Nam. Ba đường hầm đã được khám phá vào năm 1974, 1975 và 1978. Hải quân Triều Tiên từ năm 1975 đến 1980 liên tục áp giải tàu đánh cá Hàn Quốc, nhiều cán binh Triều Tiên được đặc phái đến Hàn Quốc nằm vùng vào năm 1982, đa số đều bị lực lượng cảnh sát, mật thám của Hàn Quốc và CIA tiêu diệt.
(Lãnh tụ Kim Nhật Thành, Tư lệnh tối cao của quân đội Triều Tiên tại cứ điểm trên núi Taedok, tháng 2/1963)
Tuy nhiên, thời gian về sau Triều Tiên đã gặp phải những khó khăn ngày càng tăng về kinh tế sau nhiều thập kỷ phát triển thành công. Trong thời kỳ Trung - Xô xung đột, do chống chủ nghĩa xét lại của một số lãnh đạo Liên Xô, và quan niệm rằng Trung Quốc là láng giềng ở sát bên cạnh, theo Trung Quốc có lợi hơn theo Liên Xô, nên Triều Tiên đứng hẳn về phía Trung Quốc. Sau đó còn giúp Trung Quốc và Khmer Đỏ chống Liên Xô và Việt Nam (họ bảo rằng Việt Nam đã sai khi "xâm lược" Campuchia, VN "làm to chuyện trước"). Do dại dột ngoại giao đó, Triều Tiên mất quan hệ với Việt Nam, Lào, Cuba, quan hệ với Liên Xô và Đông Âu bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Sự cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc vào năm 1979 về sau cũng đưa đến việc thờ ơ, lãnh đạm với Triều Tiên. Sự bao vây cấm vận kinh tế và quân sự của các nước do Mỹ cầm đầu. Chính sách tự cô lập, bế quan tỏa cảng. Sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết trong thời kỳ 1989-1991. Tất cả những hiện tượng đó đã đẩy Triều Tiên vào thế cô lập, cộng với những thiên tai bão lũ gây thêm vô vàn khó khăn kinh tế cho Triều Tiên.
Một Triều Tiên trước đây có tốc độ công nghiệp hóa nhanh hơn, tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh thấp hơn, chất lượng sống cao hơn Hàn Quốc trong nhiều thập kỷ, đến những năm 1990 đã gặp vô số khó khăn xuất phát từ sự thiếu thốn đối tác thương mại sau khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ cấm vận, các trận bão lụt khủng khiếp. Người dân Triều Tiên gọi thời kỳ này là "Cuộc hành quân gian khổ".
(Niềm vui của chủ tịch Kim Nhật Thành khi đi thăm cánh đồng lúa được mùa ở Onchon, tháng 8/1968)
Dư luận trong dân chúng Triều Tiên thường xuyên lặp đi lặp lại rằng Triều Tiên sẽ được thống nhất trước sinh nhật lần thứ 70 của lãnh tụ "vĩ đại" Kim Nhật Thành vào năm 1982, và đã có những nỗi lo sợ từ phương Tây rằng Kim Nhật Thành sẽ tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực lần thứ hai. Tuy nhiên, sự chênh lệch về kinh tế và thực lực quân sự giữa Bắc và Nam (nơi vẫn hiện diện 5 vạn quân đội Mỹ) vào thời kỳ đó khiến cho việc thống nhất bán đảo không thể diễn ra.
(Nhân dân và Phật tử ở Hàn Quốc biểu tình chống đối người Mỹ và chính phủ Lý Minh Bác mà họ gọi là "chính phủ Tin Lành")
Theo nhiều người Mỹ, phương Tây, và Hàn Quốc thừa nhận, Hoa Kỳ và Hàn Quốc đã hành quyết tập thể hàng chục ngàn tù nhân cánh tả và những người thân cộng trong những sự kiện như vụ tàn sát tập thể tù nhân chính trị của nhà tù Daejeon và cuộc thảm sát tập thể đẫm máu trong vụ “Nổi dậy Cheju”. Gregory Henderson, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ tại Triều Tiên vào thời điểm đó, đưa ra con số tổng cộng là trên 100.000 nạn nhân, và xác chết của họ bị quăng vào các hố chôn tập thể. Gần đây, Ủy ban Hòa giải và Tìm sự thật, một hội đoàn phi chính phủ và hoạt động độc lập của những người yêu nước ở Hàn Quốc đã nhận được các báo cáo của hơn 7,800 vụ tàn sát dân sự trong 150 địa điểm khắp bán đảo do quân đội Mỹ gây ra. Và những nơi các vụ tàn sát dân sự tập thể xảy ra trước, trong, và sau cuộc chiến. Trong nhiều trường hợp khác, quân đội Hàn Quốc cũng đã cho phá hủy một số cây cầu có đông nghẹt các thường dân đang bỏ chạy, giết chết tất cả người trên cầu.
Trên đường thua chạy, Lý Thừa Vãn do thiếu quân đã tiến hành bắt lính, sung quân cấp tốc và bắt buộc tất cả người dân chung quanh nhập ngũ ngay để bổ sung. Có lúc quân đội Mỹ được lệnh xem bất cứ thường dân Triều Tiên nào hiện diện gần mặt trận là thù địch, và được lệnh "vô hiệu hóa" (giết) họ ngay lập tức. Việc này đưa đến nhiều vụ thảm sát giết chóc bừa bãi hàng ngàn dân thường Nam Triều Tiên bởi quân lính Hoa Kỳ, tại nhiều nơi, quân đội Mỹ - Hàn đem việc bắn giết thôn dân làm trò tiêu khiển, mà đỉnh cao là cuộc Thảm sát tắm máu No Gun Ri trong đó nhiều người không có khả năng tự vệ - đa số là phụ nữ, trẻ con và người già - nhiều người đàn bà và bé gái đã bị quân đội Mỹ hãm hiếp tập thể và sau đó giết chết. Nhiều thôn khác cũng thường xuyên bị không quân Hoa Kỳ dội bom lên đầu. Gần đây, (năm 2007, 2008) Hoa Kỳ đã thừa nhận là có chính sách “ngăn chặn” thường dân tại một số nơi ở mặt trận ở một số thời điểm.
Miền Bắc Triều Tiên bị tàn phá nặng nề bởi bom Mỹ, chỉ vài căn nhà còn đứng vững. Hơn 3,5 triệu người Triều Tiên bị chết trong cuộc tiến công của Mỹ, và một danh sách dài các tội ác chiến tranh của quân đội Mỹ đã được ghi nhận bao gồm cả việc sử dụng vũ khí sinh học, vũ khí hủy diệt hàng loạt và những cuộc tàn sát cư dân địa phương. Theo chuyên gia Michel Chossudovsky thuộc cơ quan Global Research, gần 30% dân số Bắc Triều Tiên đã chết dưới những đợt dội bom của Mỹ trong thập niên 1950.
Ngoài ra chính phủ các bên cũng tố cáo, cáo buộc, quy kết lẫn nhau về nhiều tội ác chiến tranh khác, tuy nhiên không có những bằng chứng rõ ràng. Hoa Kỳ cho rằng đã có một vụ thảm sát tại đồi 303, khi 41 tù binh của họ đã quân Kim Nhật Thành bắt giữ và xả súng máy thảm sát trong tư thế vẫn bị trói tay sau lưng trong trận Vành đai Phú Sơn.
Một bộ phận người dân Hán Thành vốn là ủng hộ viên, cảm tình viên, thiên cộng, hoặc chống Lý Thừa Vãn đã chạy theo quân đội Triều Tiên (vốn đang trên đường thua chạy) về miền Bắc (điều bất ngờ ngoài dự tính này đã làm cho cuộc rút lui đang có kỷ luật trở thành vô trật tự và ì ạch, chậm chạp vì phải lo cho dân). Tuy nhiên, Hàn Quốc và Hoa Kỳ lại gọi đây là sự cưỡng bức di cư, và xem đó là một trong những "tội ác chiến tranh" của Triều Tiên.
Nhà thổ phục vụ lính Mỹ
Trong những năm 1950, kể từ khi Mỹ đóng quân ở Nam Triều Tiên đồng thời chủ động Bắc tiến cưỡng chiếm và xâm lược Bắc Triều Tiên, chính quyền thân Mỹ ở Hàn Quốc xem quân đội Mỹ như một cơ hội thu lợi về kinh tế mặc dù món lợi này được trả giá bằng hàng chục ngàn phụ nữ. Khi quân đội Mỹ tới Hàn Quốc cũng là lúc các tấm biển chỉ đường mọc lên, chỉ dẫn tới các thị trấn Hàn Quốc hay còn gọi là các địa điểm "nghỉ ngơi và giải trí" (R&R). Những nơi này nằm gần các trại lính lớn ở Hàn Quốc phục vụ cho "nhu cầu tiêu dùng" của binh lính Mỹ. ’’Nhu cầu tiêu dùng’’ này chính là tình dục của lính Mỹ.
Những thị trấn đồi trụy này không phải do tư nhân xây dựng để "làm ăn", kiếm lợi, mà do chính các chế độ cầm quyền ở Hàn Quốc đã thiết lập để vừa phục vụ lính Mỹ vừa sinh lợi cho nền kinh tế. Chính phủ Lý Thừa Vãn phát đăng ký cho tất cả gái điếm quân đội và thẻ đăng ký giúp họ ra vào những điểm R&R này. Giấy thông hành duy nhất mà một nam giới cần là một bộ quân phục Mỹ.
Vào cuối thập niên 1950, chính phủ Mỹ và chính phủ Hàn Quốc ký với nhau 2 hiệp nghị bất bình đẳng. Một là Hiệp ước phòng thủ chung, hiệp định này chính danh hóa sự có mặt của thực binh Mỹ ở Nam Triều Tiên, chính thức cho phép quân đội Mỹ đóng ở Hàn Quốc vô thời hạn. Hiệp ước cũng quy định các địa điểm R&R (phục vụ tình dục) sẽ được "cống nạp" cho lính Mỹ. Vào năm 1988, lính Mỹ vẫn còn sử dụng các thị trấn Hàn Quốc này. Ngoài ra, các con số thống kế cho thấy có hơn 18.000 gái mại dâm Hàn phục vụ gần 5 vạn lính Mỹ đóng tại Hàn Quốc. Một số chuyên gia nói rằng ở đâu có lính Mỹ, ở đó sẽ có các nhà thổ do các chính phủ bản xứ tài trợ và ủng hộ.
Hai là hiệp nghị Status of Forces Agreement, theo thỏa thuận này, tòa án Hàn Quốc không có quyền xử binh lính Mỹ đang đóng quân và làm nhiệm vụ trên lãnh thổ Hàn Quốc, chỉ có tòa án binh Mỹ mới có quyền xử binh lính Mỹ.
Những hiệp định bất bình đẳng cho phép một nước ngoài đóng quân vĩnh viễn và "dâng gái", "mỹ nhân kế" này mãi mãi đi vào lịch sử bán đảo Triều Tiên nói chung và lịch sử Đại Hàn Dân Quốc nói riêng như là một vết nhơ. Không phải ngẫu nhiên mà xưa nay thường xuyên có những tụ họp biểu tình bày tỏ sự bất mãn với Mỹ của người dân Hàn.
Bán đảo Triều Tiên sau chiến tranh
Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến tranh quy mô đầu tiên trong thời kỳ Chiến tranh lạnh và đã gây thiệt hại nặng nề cho cả bán đảo Triều Tiên và các lực lượng Liên Hiệp Quốc.
Mặc dù Hàn Quốc trì trệ về kinh tế trong những thập niên sau chiến tranh, nhưng nhờ Mỹ tích cực đổ tiền vào viện trợ, đầu tư, giúp đỡ, Hàn Quốc sau đó đã được Mỹ và phương Tây giúp vực dậy nền kinh tế và hỗ trợ cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Kinh tế Triều Tiên thì cũng đã hồi phục và phát triển nhanh chóng sau chiến tranh và cho đến khoảng năm 1975 đã vượt qua nền kinh tế của Hàn Quốc. Tuy nhiên, nền kinh tế của Triều Tiên tăng trưởng chậm dần. Ngày nay, do đòn thù cấm vận của Mỹ và phương Tây, chính sách đóng cửa, tự cô lập với thế giới bên ngoài, tự cung tự cấp, tự lực cánh sinh, bế quan tỏa cảng và nhiều sai lầm về chính sách, về thực hành, về công tác lãnh đạo, về mô hình thể chế, cơ chế chính trị, các thiết chế xã hội v.v. cộng với thiên tai bão lụt, hạn hán mất mùa v.v. cho nên nền kinh tế Triều Tiên đã sa sút, lương thực thiếu thốn, và hàng năm phải nhận viện trợ từ Trung Quốc và cả Hàn - Mỹ để cứu đói trong khi nền kinh tế Hàn Quốc đã phát triển ưu việt.
Sau chiến tranh, Kim Nhật Thành bắt tay vào việc kiến thiết đất nước vốn đã bị quân đội Mỹ tàn phá nặng nề. Ông thực hiện kế hoạch “Kinh tế quốc gia 5 năm”, tạo nên một nền kinh tế tập trung, với tất cả ngành công nghiệp đều là công hữu và tất cả nền công nghiệp được tập thể hóa. Đất nước hình thành dựa trên nguyên lý chủ nghĩa quân bình và nền kinh tế dựa trên nhu cầu của công nhân và đội ngũ trí thức. Kinh tế tập trung vào công nghiệp nặng và sản xuất vũ khí. Cả hai bên Bắc - Nam đều duy trì một lực lượng vũ trang đông đảo để bảo vệ đường ngừng bắn năm 1953.
Giữa thập niên 1960, chủ tịch Kim Nhật Thành đã có những nỗ lực xâm nhập Nam Triều Tiên để chống Hàn Quốc. Những nỗ lực đó lên đến cực điểm khi Kim Nhật Thành cho các lực lượng sát thủ đặc biệt tấn công Nhà Xanh và ám sát tổng thống độc tài Phác Chính Hy, nhưng nhiệm vụ thất bại, không giết được Phác Chính Hy mà còn ngộ sát vợ ông ta. Quân đội Triều Tiên có thái độ ngày càng quyết liệt đối với Hàn Quốc và quân đội Hoa Kỳ đồn trú ở gần giới tuyến quân sự, lôi kéo quân đội Mỹ vào những cuộc đấu súng quyết liệt dọc theo vùng phi quân sự. Vụ bắt giữ thủy thủ của tàu do thám USS Pueblo là một phần của nỗ lực này.
Theo sách "Phật giáo Đại Hàn, trước những thử thách lịch sử" của tác giả Trần Quang Thuận, do Tu viện Quảng Đức xuất bản năm 2004 ở Hoa Kỳ, chương 10, thì từ năm 1953 sau hiệp định đình chiến cho đến năm 1969, thì Bắc Triều Tiên đã gây ra 6.814 biến cố tại Nam Triều Tiên. Từ năm 1970 đến 1977, 32.775 vụ. Từ 1970 đến 1977, 32.775 vụ. Bình Nhưỡng cho đào hầm xuyên qua ranh giới Bắc - Nam để đột nhập vào Nam. Ba đường hầm đã được khám phá vào năm 1974, 1975 và 1978. Hải quân Triều Tiên từ năm 1975 đến 1980 liên tục áp giải tàu đánh cá Hàn Quốc, nhiều cán binh Triều Tiên được đặc phái đến Hàn Quốc nằm vùng vào năm 1982, đa số đều bị lực lượng cảnh sát, mật thám của Hàn Quốc và CIA tiêu diệt.
(Lãnh tụ Kim Nhật Thành, Tư lệnh tối cao của quân đội Triều Tiên tại cứ điểm trên núi Taedok, tháng 2/1963)
Tuy nhiên, thời gian về sau Triều Tiên đã gặp phải những khó khăn ngày càng tăng về kinh tế sau nhiều thập kỷ phát triển thành công. Trong thời kỳ Trung - Xô xung đột, do chống chủ nghĩa xét lại của một số lãnh đạo Liên Xô, và quan niệm rằng Trung Quốc là láng giềng ở sát bên cạnh, theo Trung Quốc có lợi hơn theo Liên Xô, nên Triều Tiên đứng hẳn về phía Trung Quốc. Sau đó còn giúp Trung Quốc và Khmer Đỏ chống Liên Xô và Việt Nam (họ bảo rằng Việt Nam đã sai khi "xâm lược" Campuchia, VN "làm to chuyện trước"). Do dại dột ngoại giao đó, Triều Tiên mất quan hệ với Việt Nam, Lào, Cuba, quan hệ với Liên Xô và Đông Âu bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Sự cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc vào năm 1979 về sau cũng đưa đến việc thờ ơ, lãnh đạm với Triều Tiên. Sự bao vây cấm vận kinh tế và quân sự của các nước do Mỹ cầm đầu. Chính sách tự cô lập, bế quan tỏa cảng. Sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết trong thời kỳ 1989-1991. Tất cả những hiện tượng đó đã đẩy Triều Tiên vào thế cô lập, cộng với những thiên tai bão lũ gây thêm vô vàn khó khăn kinh tế cho Triều Tiên.
Một Triều Tiên trước đây có tốc độ công nghiệp hóa nhanh hơn, tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh thấp hơn, chất lượng sống cao hơn Hàn Quốc trong nhiều thập kỷ, đến những năm 1990 đã gặp vô số khó khăn xuất phát từ sự thiếu thốn đối tác thương mại sau khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ cấm vận, các trận bão lụt khủng khiếp. Người dân Triều Tiên gọi thời kỳ này là "Cuộc hành quân gian khổ".
(Niềm vui của chủ tịch Kim Nhật Thành khi đi thăm cánh đồng lúa được mùa ở Onchon, tháng 8/1968)
Dư luận trong dân chúng Triều Tiên thường xuyên lặp đi lặp lại rằng Triều Tiên sẽ được thống nhất trước sinh nhật lần thứ 70 của lãnh tụ "vĩ đại" Kim Nhật Thành vào năm 1982, và đã có những nỗi lo sợ từ phương Tây rằng Kim Nhật Thành sẽ tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực lần thứ hai. Tuy nhiên, sự chênh lệch về kinh tế và thực lực quân sự giữa Bắc và Nam (nơi vẫn hiện diện 5 vạn quân đội Mỹ) vào thời kỳ đó khiến cho việc thống nhất bán đảo không thể diễn ra.
(Nhân dân và Phật tử ở Hàn Quốc biểu tình chống đối người Mỹ và chính phủ Lý Minh Bác mà họ gọi là "chính phủ Tin Lành")
Nội dung Trang 4
Nội dung Trang 5
Nội dung Trang 6
Nội dung Trang 7
No comments:
Post a Comment
@ Bạn đọc: Blog này tôn trọng các ý kiến trái chiều mang tính xây dựng. Do đó các bạn có thể xem đây là một diễn đàn để trao đổi, biện giải những vấn đề còn chưa sáng tỏ, góp phần đẩy lùi những luận điệu sai trái, nhố nhăng, xuyên tạc lịch sử và đi ngược lại lợi ích của dân tộc.
@ Rận chủ & nặc nô: Ở đây tự do ngôn luận cho "nhân ngôn" chứ không dung nạp "cẩu ngữ". "Còm" nào vi phạm "cẩu quyền", tranh giành quyền sủa của mấy chú cún sẽ bị xóa tiệt.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Để chèn hình ảnh, youtube video và các bài hát từ nhaccuatui vào nhận xét các bạn chỉ cần dán đường link vào nhận xét của mình.